
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 2/2 | ||||||
2 3 | 3 4 | 4 5 | 5 6 | 6 7 | 7 8 NGÀY ĐỨC PHẬT THÍCH CA XUẤT GIA Từ khi còn nhỏ, Thái tử Tất Đạt Đa đã có những nhận thức hết sức tinh tế, Ngài nhận thức rõ ràng sự sinh sống là khổ.
Một hôm, nhân ngày lễ Hạ điền, Thái tử theo vua cha ra đồng xem dân chúng cày cấy. Cảnh tượng có vẻ thái bình, an lạc lắm. Nhưng tâm hồn Thái tử không phải là một tâm hồn hời hợt, xét đoán một cách nông nổi. Ngài nhận thức rõ ràng sự sinh sống là khổ. Hôm khác, Ngài xin phép Vua cha đi dạo. Ra đến cửa Đông, Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt mờ, tai điếc, lưng còng, nương gậy lần từng bước ngập ngừng như sắp ngã. Ðến cửa Nam, Thái tử thấy một người đau nằm trên cỏ, đang khóc than rên siết, đau đớn vô cùng. Ðến cửa Tây, Ngài trông thấy một cái thây chết nằm giữa đường, ruồi nhặng bu bám, và sình lên, trông rất ghê tởm. Ba cảnh khổ già, đau, chết, cộng thêm vào cái ấn tượng tương tàn trong cuộc sống mà Thái tử đã nhận thấy khi đi xem lễ cày ruộng, làm cho Ngài đau buồn, thương xót chúng sinh vô cùng. Một hôm khác nữa, Ngài ra cửa Bắc, gặp một vị tu sĩ tướng mạo nghiêm trang, điềm tĩnh thản nhiên như người vô sự đi ngang qua đường. Thái tử thấy trong lòng nảy sinh một cảm mến đối với vị tu sĩ. Ngài vội vã đến chào mừng và hỏi về ích lợi của sự tu hành. Vị Sa môn đáp rằng: "Tôi tu hành là quyết bỏ dứt mọi sự ràng buộc của cõi đời, về cầu cho mình khỏi khổ và thành chính giác để phổ độ chúng sinh đều được giải thoát như mình". Lời giải đáp trúng với hoài bão mà Thái tử đang ấp ủ bấy lâu, nên Ngài khôn siết vui mừng. Ngài liền trở về cung xin vua cha cho mình xuất gia. Vua Tịnh Phạn không nhận lời. Thái tử yêu cầu vua cha 4 điều nếu vua giải quyết được thì Ngài hoãn việc đi tu, để trở lại lo chăn dân, trị nước. Bốn điều này là: 1. Làm sao cho con trẻ mãi không già 2. Làm sao cho con mạnh mãi không đau 3. Làm sao cho con sống hoài không chết 4. Làm sao cho mọi người hết khổ Bốn điều này làm cho vua cha bối rối, không giải quyết được điều nào cả. Một đêm khuya thừa dịp quân lính canh gác và cung phi mỹ nữ say ngủ sau một tiệc linh đình, Thái Tử nhìn vợ con lần cuối, rồi đánh thức tên giữ ngựa Xa Nặc dậy, thắng yên cương, hai thầy trò trốn ra khỏi thành. Lúc bấy giờ nhằm đêm mồng Tám tháng Hai, năm Ngài 19 tuổi. |
8 9 NGÀY ĐỨC PHẬT THÍCH CA XUẤT GIA Từ khi còn nhỏ, Thái tử Tất Đạt Đa đã có những nhận thức hết sức tinh tế, Ngài nhận thức rõ ràng sự sinh sống là khổ.
Một hôm, nhân ngày lễ Hạ điền, Thái tử theo vua cha ra đồng xem dân chúng cày cấy. Cảnh tượng có vẻ thái bình, an lạc lắm. Nhưng tâm hồn Thái tử không phải là một tâm hồn hời hợt, xét đoán một cách nông nổi. Ngài nhận thức rõ ràng sự sinh sống là khổ. Hôm khác, Ngài xin phép Vua cha đi dạo. Ra đến cửa Đông, Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt mờ, tai điếc, lưng còng, nương gậy lần từng bước ngập ngừng như sắp ngã. Ðến cửa Nam, Thái tử thấy một người đau nằm trên cỏ, đang khóc than rên siết, đau đớn vô cùng. Ðến cửa Tây, Ngài trông thấy một cái thây chết nằm giữa đường, ruồi nhặng bu bám, và sình lên, trông rất ghê tởm. Ba cảnh khổ già, đau, chết, cộng thêm vào cái ấn tượng tương tàn trong cuộc sống mà Thái tử đã nhận thấy khi đi xem lễ cày ruộng, làm cho Ngài đau buồn, thương xót chúng sinh vô cùng. Một hôm khác nữa, Ngài ra cửa Bắc, gặp một vị tu sĩ tướng mạo nghiêm trang, điềm tĩnh thản nhiên như người vô sự đi ngang qua đường. Thái tử thấy trong lòng nảy sinh một cảm mến đối với vị tu sĩ. Ngài vội vã đến chào mừng và hỏi về ích lợi của sự tu hành. Vị Sa môn đáp rằng: "Tôi tu hành là quyết bỏ dứt mọi sự ràng buộc của cõi đời, về cầu cho mình khỏi khổ và thành chính giác để phổ độ chúng sinh đều được giải thoát như mình". Lời giải đáp trúng với hoài bão mà Thái tử đang ấp ủ bấy lâu, nên Ngài khôn siết vui mừng. Ngài liền trở về cung xin vua cha cho mình xuất gia. Vua Tịnh Phạn không nhận lời. Thái tử yêu cầu vua cha 4 điều nếu vua giải quyết được thì Ngài hoãn việc đi tu, để trở lại lo chăn dân, trị nước. Bốn điều này là: 1. Làm sao cho con trẻ mãi không già 2. Làm sao cho con mạnh mãi không đau 3. Làm sao cho con sống hoài không chết 4. Làm sao cho mọi người hết khổ Bốn điều này làm cho vua cha bối rối, không giải quyết được điều nào cả. Một đêm khuya thừa dịp quân lính canh gác và cung phi mỹ nữ say ngủ sau một tiệc linh đình, Thái Tử nhìn vợ con lần cuối, rồi đánh thức tên giữ ngựa Xa Nặc dậy, thắng yên cương, hai thầy trò trốn ra khỏi thành. Lúc bấy giờ nhằm đêm mồng Tám tháng Hai, năm Ngài 19 tuổi. |
9 10 LỄ HỘI CHÙA ĐÔNG SƠN - BẮC NINH Hàng năm, cứ đến ngày 10 tháng 2 Âm lịch, người dân làng Đông Sơn lại tưng bừng mở hội chùa Đông Sơn, thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
Chùa Đông Sơn có tên chữ là “Chân Khai Tự” thuộc thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, Bắc Ninh thờ Phật, Lê Văn Giác Đại vương (Thành Hoàng làng) và tiến sĩ Vũ Mộng Nguyên, nhà khoa bảng, nhà giáo, nhà thơ nổi tiếng xứ Kinh Bắc. Chùa được dựng năm “Dương Đức nhị niên” 1673 và đã qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Trải qua hàng trăm năm, ngày nay, chùa Đông Sơn có kiến trúc kiểu chữ “Đinh” gồm 5 gian tiền đường, 3 gian thượng điện, bộ khung gỗ và mái ngói cổ kính, là nơi sinh hoạt tâm linh của người dân Bắc Ninh. Tục xưa còn lưu truyền lại, cứ vào ngày 10 tháng 2 Âm lịch, dân làng Đông Sơn lại tưng bừng mở hội làng (còn gọi là vào Đám). Theo đó, những người được chọn để làm Quan đám phải là người có gia đình yên ấm, cháu con hiếu thảo, nhà không có tang và trước ngày diễn ra lễ hội phải ăn chay nằm mộng. Đặc sắc nhất trong lễ hội là tục rước bình hương Thành Hoàng làng từ chùa ra đình để tế lễ, khi hết hội lại rước về chùa để an vị. Chính hội là ngày mùng 10 tháng 2 Âm lịch nhưng ngay từ ngày mùng 9 đình và chùa làng đã được mở cửa để làm bao sái đồ thờ tự, phong cờ quạt và rước bình hương của Thành Hoàng làng từ chùa ra “đình xã” (vốn là ngôi đình chung của ba xóm cổ: Đoài, Giữa, Đồng Lĩnh) để tế lễ mở hội. Qua thời gian, đình Đông Sơn đã bị phá hủy trong kháng chiến chống Pháp, hội chỉ còn được mở tập trung tại chùa Đông Sơn. Dù trải qua nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử nhưng dân làng vẫn gìn giữ những nét đẹp văn hóa của lễ hội chùa Đông Sơn. Bởi, không chỉ dừng lại ở một lễ hội đơn thuần mà lễ hội chùa Đông Sơn còn là dịp gắn kết cộng đồng làng xã vào hoạt động tín ngưỡng tâm linh, văn hóa, văn nghệ nhằm gìn giữ và phát huy những vốn quý của dân tộc từ thủa cha ông dựng nước. |
10 11 LỄ HỘI CHÙA ĐÔNG SƠN - BẮC NINH Hàng năm, cứ đến ngày 10 tháng 2 Âm lịch, người dân làng Đông Sơn lại tưng bừng mở hội chùa Đông Sơn, thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
Chùa Đông Sơn có tên chữ là “Chân Khai Tự” thuộc thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, Bắc Ninh thờ Phật, Lê Văn Giác Đại vương (Thành Hoàng làng) và tiến sĩ Vũ Mộng Nguyên, nhà khoa bảng, nhà giáo, nhà thơ nổi tiếng xứ Kinh Bắc. Chùa được dựng năm “Dương Đức nhị niên” 1673 và đã qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Trải qua hàng trăm năm, ngày nay, chùa Đông Sơn có kiến trúc kiểu chữ “Đinh” gồm 5 gian tiền đường, 3 gian thượng điện, bộ khung gỗ và mái ngói cổ kính, là nơi sinh hoạt tâm linh của người dân Bắc Ninh. Tục xưa còn lưu truyền lại, cứ vào ngày 10 tháng 2 Âm lịch, dân làng Đông Sơn lại tưng bừng mở hội làng (còn gọi là vào Đám). Theo đó, những người được chọn để làm Quan đám phải là người có gia đình yên ấm, cháu con hiếu thảo, nhà không có tang và trước ngày diễn ra lễ hội phải ăn chay nằm mộng. Đặc sắc nhất trong lễ hội là tục rước bình hương Thành Hoàng làng từ chùa ra đình để tế lễ, khi hết hội lại rước về chùa để an vị. Chính hội là ngày mùng 10 tháng 2 Âm lịch nhưng ngay từ ngày mùng 9 đình và chùa làng đã được mở cửa để làm bao sái đồ thờ tự, phong cờ quạt và rước bình hương của Thành Hoàng làng từ chùa ra “đình xã” (vốn là ngôi đình chung của ba xóm cổ: Đoài, Giữa, Đồng Lĩnh) để tế lễ mở hội. Qua thời gian, đình Đông Sơn đã bị phá hủy trong kháng chiến chống Pháp, hội chỉ còn được mở tập trung tại chùa Đông Sơn. Dù trải qua nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử nhưng dân làng vẫn gìn giữ những nét đẹp văn hóa của lễ hội chùa Đông Sơn. Bởi, không chỉ dừng lại ở một lễ hội đơn thuần mà lễ hội chùa Đông Sơn còn là dịp gắn kết cộng đồng làng xã vào hoạt động tín ngưỡng tâm linh, văn hóa, văn nghệ nhằm gìn giữ và phát huy những vốn quý của dân tộc từ thủa cha ông dựng nước. |
11 12 LỄ HỘI CHÙA ĐÔNG SƠN - BẮC NINH Hàng năm, cứ đến ngày 10 tháng 2 Âm lịch, người dân làng Đông Sơn lại tưng bừng mở hội chùa Đông Sơn, thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
Chùa Đông Sơn có tên chữ là “Chân Khai Tự” thuộc thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, Bắc Ninh thờ Phật, Lê Văn Giác Đại vương (Thành Hoàng làng) và tiến sĩ Vũ Mộng Nguyên, nhà khoa bảng, nhà giáo, nhà thơ nổi tiếng xứ Kinh Bắc. Chùa được dựng năm “Dương Đức nhị niên” 1673 và đã qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Trải qua hàng trăm năm, ngày nay, chùa Đông Sơn có kiến trúc kiểu chữ “Đinh” gồm 5 gian tiền đường, 3 gian thượng điện, bộ khung gỗ và mái ngói cổ kính, là nơi sinh hoạt tâm linh của người dân Bắc Ninh. Tục xưa còn lưu truyền lại, cứ vào ngày 10 tháng 2 Âm lịch, dân làng Đông Sơn lại tưng bừng mở hội làng (còn gọi là vào Đám). Theo đó, những người được chọn để làm Quan đám phải là người có gia đình yên ấm, cháu con hiếu thảo, nhà không có tang và trước ngày diễn ra lễ hội phải ăn chay nằm mộng. Đặc sắc nhất trong lễ hội là tục rước bình hương Thành Hoàng làng từ chùa ra đình để tế lễ, khi hết hội lại rước về chùa để an vị. Chính hội là ngày mùng 10 tháng 2 Âm lịch nhưng ngay từ ngày mùng 9 đình và chùa làng đã được mở cửa để làm bao sái đồ thờ tự, phong cờ quạt và rước bình hương của Thành Hoàng làng từ chùa ra “đình xã” (vốn là ngôi đình chung của ba xóm cổ: Đoài, Giữa, Đồng Lĩnh) để tế lễ mở hội. Qua thời gian, đình Đông Sơn đã bị phá hủy trong kháng chiến chống Pháp, hội chỉ còn được mở tập trung tại chùa Đông Sơn. Dù trải qua nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử nhưng dân làng vẫn gìn giữ những nét đẹp văn hóa của lễ hội chùa Đông Sơn. Bởi, không chỉ dừng lại ở một lễ hội đơn thuần mà lễ hội chùa Đông Sơn còn là dịp gắn kết cộng đồng làng xã vào hoạt động tín ngưỡng tâm linh, văn hóa, văn nghệ nhằm gìn giữ và phát huy những vốn quý của dân tộc từ thủa cha ông dựng nước. |
12 13 LỄ HỘI CHÙA ĐÔNG SƠN - BẮC NINH Hàng năm, cứ đến ngày 10 tháng 2 Âm lịch, người dân làng Đông Sơn lại tưng bừng mở hội chùa Đông Sơn, thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
Chùa Đông Sơn có tên chữ là “Chân Khai Tự” thuộc thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, Bắc Ninh thờ Phật, Lê Văn Giác Đại vương (Thành Hoàng làng) và tiến sĩ Vũ Mộng Nguyên, nhà khoa bảng, nhà giáo, nhà thơ nổi tiếng xứ Kinh Bắc. Chùa được dựng năm “Dương Đức nhị niên” 1673 và đã qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Trải qua hàng trăm năm, ngày nay, chùa Đông Sơn có kiến trúc kiểu chữ “Đinh” gồm 5 gian tiền đường, 3 gian thượng điện, bộ khung gỗ và mái ngói cổ kính, là nơi sinh hoạt tâm linh của người dân Bắc Ninh. Tục xưa còn lưu truyền lại, cứ vào ngày 10 tháng 2 Âm lịch, dân làng Đông Sơn lại tưng bừng mở hội làng (còn gọi là vào Đám). Theo đó, những người được chọn để làm Quan đám phải là người có gia đình yên ấm, cháu con hiếu thảo, nhà không có tang và trước ngày diễn ra lễ hội phải ăn chay nằm mộng. Đặc sắc nhất trong lễ hội là tục rước bình hương Thành Hoàng làng từ chùa ra đình để tế lễ, khi hết hội lại rước về chùa để an vị. Chính hội là ngày mùng 10 tháng 2 Âm lịch nhưng ngay từ ngày mùng 9 đình và chùa làng đã được mở cửa để làm bao sái đồ thờ tự, phong cờ quạt và rước bình hương của Thành Hoàng làng từ chùa ra “đình xã” (vốn là ngôi đình chung của ba xóm cổ: Đoài, Giữa, Đồng Lĩnh) để tế lễ mở hội. Qua thời gian, đình Đông Sơn đã bị phá hủy trong kháng chiến chống Pháp, hội chỉ còn được mở tập trung tại chùa Đông Sơn. Dù trải qua nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử nhưng dân làng vẫn gìn giữ những nét đẹp văn hóa của lễ hội chùa Đông Sơn. Bởi, không chỉ dừng lại ở một lễ hội đơn thuần mà lễ hội chùa Đông Sơn còn là dịp gắn kết cộng đồng làng xã vào hoạt động tín ngưỡng tâm linh, văn hóa, văn nghệ nhằm gìn giữ và phát huy những vốn quý của dân tộc từ thủa cha ông dựng nước. |
13 14 LỄ HỘI CHÙA VĨNH NGHIÊM - BẮC GIANG Hội chùa Đức La tổ chức vào ngày 14/02 Âm lịch hàng năm.
Chùa Đức La xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang được xây dựng vào thế kỷ XIII với tên gọi là Vĩnh Nghiêm Tự của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, do vua Trần Nhân Tông sáng lập và dần trở thành trung tâm Phật giáo của cả nước. Chùa nằm ở ngã ba Phượng Nhãn và được sông Thương, sông Lục Nam, dặng núi Cô Tiên và dãy núi Nham Biền tô điểm. Chùa được vua Trần Nhân Tông thuyết pháp và đào luyện tăng đồ, khắc in những bộ kinh quý như: Hoa Nghiêm Sở, Di Đà Sở, Sao Đại Thừa Chí Quán. Xưa kia chùa là nơi tiền trạm cho khách hành hương đến đất thánh của Thiền phái Trúc Lâm ở Chí Linh (Hải Dương) và Đông Triều (Quảng Ninh). Năm 1822 chùa được trùng tu lớn nhất và được Vua Tự Đức đặt tên thành chùa Đức La. Ngày này các sư gọi là ngày giỗ Tổ nên cũng gọi là hội giỗ Tổ Chùa La. Tiếng vang mỗi ngày một lan truyền xa rộng nên đó thu hút được khách thập phương xa gần đến dự mỗi năm một đông hơn. Qua lễ hội này, đạo Phật từ - bi - hỉ - xả một lần nữa được thấm vào lòng người dân đất Bắc. |
14 15 NGÀY ĐỨC PHẬT THÍCH CA NHẬP NIẾT BÀN Ngày Rằm tháng Hai - là Ngày Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn
Trên đường thuyết pháp, Ngài giao bình bát cho ông A Nan và truyền treo võng lên, trong rừng cây Ta-la (cây song thọ), để Ngài nằm nghỉ. Ngài nằm xuống võng đầu trở về hướng Bắc, mình nghiêng về phía tay phải, mặt quay về hướng mặt trời lặn, hai chân tréo vào nhau. Lúc bấy giờ các đệ tử của Ngài đều có mặt đông đủ, chỉ trừ ông Ca Diếp vì đi thuyết pháp xa, chưa về kịp. Ngài hội tất cả đệ tử và tín đồ đến quanh Ngài và dặn dò một lần cuối. Ngài phú chúc như sau: a) Y bát của Ngài sẽ truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp. b) Các đệ tử phải lấy giới luật làm Thầy. c) Ở đầu các Kinh phải nên nêu 4 chữ: "Như thị ngã văn". d) Xá lợi của Ngài sẽ chia làm ba phần: - Một phần cho Thiên cung - Một phần cho Long cung - Một phần chia cho 8 vị Quốc vương ở Ấn Ðộ Ngài đã để lại trong giờ phút cuối cùng những lời dạy: - "Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các ngươi hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các ngươi!..". - "Này! Các người đừng vì dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quý giá. Chỉ có chân lý cuả Ðạo ta là bất di, bất dịch. Hãy tinh tiến lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!". Sau khi đã dặn dò cặn kẽ xong, Ngài nhập định rồi vào Niết bàn. Lúc bấy giờ nhằm ngày Rằm tháng hai Âm lịch. |
15 16 LỄ HỘI CHÙA BỔ ĐÀ - BẮC GIANG Hội chùa Bổ Đà, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang được tổ chức từ ngày 16 - 18 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu vực núi Bổ Đà.
Theo tài liệu của Bảo tàng tỉnh, Chùa được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng, dưới triều vua Lê Dụng Tông (1705-1728) niên hiệu Bảo Thái (1720-1729). Đây không chỉ là một danh thắng có giá trị văn hoá lịch sử mà còn là nơi hành hương thờ phụng thường xuyên của người dân vùng Kinh Bắc nói riêng và cả nước nói chung. Hiện nay, tới kỳ lễ hội hoặc các ngày lễ, ngày nghỉ rất nhiều khách thập phương tới chùa để tham quan cảnh đẹp và tỏ lòng tín ngưỡng, tạo nên không khí lễ hội rất vui vẻ và mang đậm nét văn hoá. Xung quanh chùa là các kiến trúc như: Ao Miếu, chùa Hang, đền Ngự, đền Núi Lùn, đền Trung, đền Thượng, chùa Cao... tạo nên một quần thể di tích lịch sử văn hoá có giá trị nghệ thuật cao và thu hút nhiều khách tham quan du lịch |
16 17 LỄ HỘI CHÙA BỔ ĐÀ - BẮC GIANG Hội chùa Bổ Đà, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang được tổ chức từ ngày 16 - 18 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu vực núi Bổ Đà.
Theo tài liệu của Bảo tàng tỉnh, Chùa được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng, dưới triều vua Lê Dụng Tông (1705-1728) niên hiệu Bảo Thái (1720-1729). Đây không chỉ là một danh thắng có giá trị văn hoá lịch sử mà còn là nơi hành hương thờ phụng thường xuyên của người dân vùng Kinh Bắc nói riêng và cả nước nói chung. Hiện nay, tới kỳ lễ hội hoặc các ngày lễ, ngày nghỉ rất nhiều khách thập phương tới chùa để tham quan cảnh đẹp và tỏ lòng tín ngưỡng, tạo nên không khí lễ hội rất vui vẻ và mang đậm nét văn hoá. Xung quanh chùa là các kiến trúc như: Ao Miếu, chùa Hang, đền Ngự, đền Núi Lùn, đền Trung, đền Thượng, chùa Cao... tạo nên một quần thể di tích lịch sử văn hoá có giá trị nghệ thuật cao và thu hút nhiều khách tham quan du lịch |
17 18 LỄ HỘI CHÙA BỔ ĐÀ - BẮC GIANG Hội chùa Bổ Đà, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang được tổ chức từ ngày 16 - 18 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu vực núi Bổ Đà.
Theo tài liệu của Bảo tàng tỉnh, Chùa được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng, dưới triều vua Lê Dụng Tông (1705-1728) niên hiệu Bảo Thái (1720-1729). Đây không chỉ là một danh thắng có giá trị văn hoá lịch sử mà còn là nơi hành hương thờ phụng thường xuyên của người dân vùng Kinh Bắc nói riêng và cả nước nói chung. Hiện nay, tới kỳ lễ hội hoặc các ngày lễ, ngày nghỉ rất nhiều khách thập phương tới chùa để tham quan cảnh đẹp và tỏ lòng tín ngưỡng, tạo nên không khí lễ hội rất vui vẻ và mang đậm nét văn hoá. Xung quanh chùa là các kiến trúc như: Ao Miếu, chùa Hang, đền Ngự, đền Núi Lùn, đền Trung, đền Thượng, chùa Cao... tạo nên một quần thể di tích lịch sử văn hoá có giá trị nghệ thuật cao và thu hút nhiều khách tham quan du lịch |
18 19 LỄ HỘI QUÁN THẾ ÂM - ĐÀ NẴNG Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức vào ngày 17 đến 19 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Đây là một lễ hội lớn tại miền Trung thu hút hàng ngàn người tham dự. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân ngày khánh thành tượng Bồ tát Quán Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật Bà Quán Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi đến ngày vía đức Phật Bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), lễ hội Quán Thế Âm mới được khôi phục trở lại và ngày càng được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung ngày càng phong phú hơn. Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung như: lễ rước ánh sáng, lễ khai kinh, lễ trai đàn chẩn tế, lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc. Trong đó lễ rước tượng Quán Thế Âm thu hút rất đông khách thập phương quan tâm. Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật Bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an. Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại. Với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn. |
19 20 LỄ HỘI QUÁN THẾ ÂM - ĐÀ NẴNG Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức vào ngày 17 đến 19 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Đây là một lễ hội lớn tại miền Trung thu hút hàng ngàn người tham dự. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân ngày khánh thành tượng Bồ tát Quán Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật Bà Quán Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi đến ngày vía đức Phật Bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), lễ hội Quán Thế Âm mới được khôi phục trở lại và ngày càng được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung ngày càng phong phú hơn. Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung như: lễ rước ánh sáng, lễ khai kinh, lễ trai đàn chẩn tế, lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc. Trong đó lễ rước tượng Quán Thế Âm thu hút rất đông khách thập phương quan tâm. Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật Bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an. Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại. Với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn. |
20 21 LỄ HỘI QUÁN THẾ ÂM - ĐÀ NẴNG Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức vào ngày 17 đến 19 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Đây là một lễ hội lớn tại miền Trung thu hút hàng ngàn người tham dự. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân ngày khánh thành tượng Bồ tát Quán Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật Bà Quán Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi đến ngày vía đức Phật Bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), lễ hội Quán Thế Âm mới được khôi phục trở lại và ngày càng được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung ngày càng phong phú hơn. Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung như: lễ rước ánh sáng, lễ khai kinh, lễ trai đàn chẩn tế, lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc. Trong đó lễ rước tượng Quán Thế Âm thu hút rất đông khách thập phương quan tâm. Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật Bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an. Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại. Với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn. |
21 22 LỄ HỘI QUÁN THẾ ÂM - ĐÀ NẴNG Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức vào ngày 17 đến 19 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Đây là một lễ hội lớn tại miền Trung thu hút hàng ngàn người tham dự. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân ngày khánh thành tượng Bồ tát Quán Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật Bà Quán Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi đến ngày vía đức Phật Bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), lễ hội Quán Thế Âm mới được khôi phục trở lại và ngày càng được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung ngày càng phong phú hơn. Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung như: lễ rước ánh sáng, lễ khai kinh, lễ trai đàn chẩn tế, lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc. Trong đó lễ rước tượng Quán Thế Âm thu hút rất đông khách thập phương quan tâm. Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật Bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an. Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại. Với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn. |
22 23 LỄ HỘI QUÁN THẾ ÂM - ĐÀ NẴNG Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức vào ngày 17 đến 19 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Đây là một lễ hội lớn tại miền Trung thu hút hàng ngàn người tham dự. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân ngày khánh thành tượng Bồ tát Quán Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật Bà Quán Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi đến ngày vía đức Phật Bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), lễ hội Quán Thế Âm mới được khôi phục trở lại và ngày càng được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung ngày càng phong phú hơn. Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung như: lễ rước ánh sáng, lễ khai kinh, lễ trai đàn chẩn tế, lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc. Trong đó lễ rước tượng Quán Thế Âm thu hút rất đông khách thập phương quan tâm. Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật Bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an. Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại. Với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn. |
23 24 LỄ HỘI QUÁN THẾ ÂM - ĐÀ NẴNG Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức vào ngày 17 đến 19 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Đây là một lễ hội lớn tại miền Trung thu hút hàng ngàn người tham dự. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân ngày khánh thành tượng Bồ tát Quán Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật Bà Quán Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi đến ngày vía đức Phật Bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), lễ hội Quán Thế Âm mới được khôi phục trở lại và ngày càng được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung ngày càng phong phú hơn. Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung như: lễ rước ánh sáng, lễ khai kinh, lễ trai đàn chẩn tế, lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc. Trong đó lễ rước tượng Quán Thế Âm thu hút rất đông khách thập phương quan tâm. Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật Bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an. Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại. Với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn. |
24 25 LỄ HỘI QUÁN THẾ ÂM - ĐÀ NẴNG Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức vào ngày 17 đến 19 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Đây là một lễ hội lớn tại miền Trung thu hút hàng ngàn người tham dự. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân ngày khánh thành tượng Bồ tát Quán Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật Bà Quán Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi đến ngày vía đức Phật Bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), lễ hội Quán Thế Âm mới được khôi phục trở lại và ngày càng được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung ngày càng phong phú hơn. Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung như: lễ rước ánh sáng, lễ khai kinh, lễ trai đàn chẩn tế, lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc. Trong đó lễ rước tượng Quán Thế Âm thu hút rất đông khách thập phương quan tâm. Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật Bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an. Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại. Với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn. |
25 26 LỄ HỘI QUÁN THẾ ÂM - ĐÀ NẴNG Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức vào ngày 17 đến 19 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Đây là một lễ hội lớn tại miền Trung thu hút hàng ngàn người tham dự. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân ngày khánh thành tượng Bồ tát Quán Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật Bà Quán Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi đến ngày vía đức Phật Bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), lễ hội Quán Thế Âm mới được khôi phục trở lại và ngày càng được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung ngày càng phong phú hơn. Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung như: lễ rước ánh sáng, lễ khai kinh, lễ trai đàn chẩn tế, lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc. Trong đó lễ rước tượng Quán Thế Âm thu hút rất đông khách thập phương quan tâm. Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật Bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an. Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại. Với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn. |
26 27 LỄ HỘI QUÁN THẾ ÂM - ĐÀ NẴNG Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức vào ngày 17 đến 19 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Đây là một lễ hội lớn tại miền Trung thu hút hàng ngàn người tham dự. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân ngày khánh thành tượng Bồ tát Quán Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật Bà Quán Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi đến ngày vía đức Phật Bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), lễ hội Quán Thế Âm mới được khôi phục trở lại và ngày càng được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung ngày càng phong phú hơn. Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung như: lễ rước ánh sáng, lễ khai kinh, lễ trai đàn chẩn tế, lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc. Trong đó lễ rước tượng Quán Thế Âm thu hút rất đông khách thập phương quan tâm. Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật Bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an. Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại. Với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn. |
27 28 LỄ HỘI QUÁN THẾ ÂM - ĐÀ NẴNG Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức vào ngày 17 đến 19 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Đây là một lễ hội lớn tại miền Trung thu hút hàng ngàn người tham dự. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân ngày khánh thành tượng Bồ tát Quán Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật Bà Quán Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi đến ngày vía đức Phật Bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), lễ hội Quán Thế Âm mới được khôi phục trở lại và ngày càng được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung ngày càng phong phú hơn. Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung như: lễ rước ánh sáng, lễ khai kinh, lễ trai đàn chẩn tế, lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc. Trong đó lễ rước tượng Quán Thế Âm thu hút rất đông khách thập phương quan tâm. Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật Bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an. Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại. Với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn. |
28 29 LỄ HỘI QUÁN THẾ ÂM - ĐÀ NẴNG Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức vào ngày 17 đến 19 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Đây là một lễ hội lớn tại miền Trung thu hút hàng ngàn người tham dự. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân ngày khánh thành tượng Bồ tát Quán Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật Bà Quán Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi đến ngày vía đức Phật Bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), lễ hội Quán Thế Âm mới được khôi phục trở lại và ngày càng được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung ngày càng phong phú hơn. Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung như: lễ rước ánh sáng, lễ khai kinh, lễ trai đàn chẩn tế, lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc. Trong đó lễ rước tượng Quán Thế Âm thu hút rất đông khách thập phương quan tâm. Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật Bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an. Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại. Với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn. |
29 1/3 LỄ HỘI QUÁN THẾ ÂM - ĐÀ NẴNG Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức vào ngày 17 đến 19 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Đây là một lễ hội lớn tại miền Trung thu hút hàng ngàn người tham dự. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân ngày khánh thành tượng Bồ tát Quán Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật Bà Quán Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi đến ngày vía đức Phật Bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), lễ hội Quán Thế Âm mới được khôi phục trở lại và ngày càng được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung ngày càng phong phú hơn. Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung như: lễ rước ánh sáng, lễ khai kinh, lễ trai đàn chẩn tế, lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc. Trong đó lễ rước tượng Quán Thế Âm thu hút rất đông khách thập phương quan tâm. Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật Bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an. Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại. Với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn. |
30 2 LỄ HỘI QUÁN THẾ ÂM - ĐÀ NẴNG Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức vào ngày 17 đến 19 tháng Hai Âm lịch hàng năm tại khu du lịch Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Đây là một lễ hội lớn tại miền Trung thu hút hàng ngàn người tham dự. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân ngày khánh thành tượng Bồ tát Quán Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật Bà Quán Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi đến ngày vía đức Phật Bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), lễ hội Quán Thế Âm mới được khôi phục trở lại và ngày càng được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung ngày càng phong phú hơn. Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung như: lễ rước ánh sáng, lễ khai kinh, lễ trai đàn chẩn tế, lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc. Trong đó lễ rước tượng Quán Thế Âm thu hút rất đông khách thập phương quan tâm. Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật Bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an. Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại. Với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn. |
31 3 LỄ HỘI CHÙA CHÂN TIÊN - HÀ TĨNH Theo truyền thống, vào ngày 3/3 Âm lịch hàng năm, BTS Phật giáo tỉnh Hà Tĩnh cùng các cấp chính quyền lại tổ chức lễ hội chùa Chân Tiên, tại chùa Chân Tiên xã Thịnh Lộc, huyện Lộc Hà.
Chùa Chân Tiên được xây dựng vào thời nhà Trần (thế kỷ XIII). Đây là công trình có kiến trúc hài hòa, gồm hai nhà: nhà bên trái (chùa thứ nhất) và nhà bên phải (chùa thứ hai). Nhà bên trái thờ Phật Tổ, được xây dựng bằng vôi vữa theo kiến trúc tứ trụ, có 3 gian, xung quanh có tường bao bọc. Chùa được lợp ngói vảy, hai bên hiên chùa thờ hai vị: quan Văn (bên trái) và quan Võ (bên phải). Nhà bên phải thờ Thánh Mẫu bao gồm các công trình như nhà Thượng điện, kiệu Long đình và nhà Bái đường với diện tích 56m2… Các công trình này đều được trang trí hoa văn, họa tiết khá tinh xảo như hình rồng, hình mặt trăng, hoa lá v.v... Trong chùa Chân Tiên hiện nay còn lưu giữ một số hiện vật thờ tự quý hiếm như: các pho tượng Phật, lư hương, trống, hương án, cờ Phật… Không chỉ là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng, chùa Chân Tiên còn là một di tích lịch sử cách mạng. Chùa Chân Tiên được mệnh danh “Am tiên đệ nhất danh lam” được công nhận Di tích lịch sử quốc gia năm 1992. Lễ hội chùa Chân Tiên thu hút các đại đức, tăng ni, Phật tử và đông đảo du khách thập phương về dâng hương, cầu Phật. Tại lễ hội diễn ra các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, các trò chơi dân gian như: bóng chuyền bãi biển, đua thuyền và vật cổ truyền, đi cà kheo... |
|||||
<< < | Tháng 3 năm 2025 | > >> |