Cập nhật lúc 01:33:20 29-05-2020 (GMT+7)

Ý nghĩa danh hiệu Quan Âm

Quán Âm là tên gọi tắt của Bồ-tát. Bồ-tát Quán Thế Âm là vị nào thì mọi người đều biết, nhưng để thuyết minh rõ hơn về ngài thì việc này không phải dễ.


17.jpg
Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm tại chùa Huê Nghiêm, TP.HCM

Nhà triết học phương Tây từng nói: “Có thể nói thêm được những gì thì đã không phải là Thượng đế”. Để nói rốt ráo về ý nghĩa Bồ-tát Quán Thế Âm, tôi nghĩ rằng câu nhận định trên cũng có thể phù hợp cho cách nhìn về ngài. Hay nói cách khác, Bồ-tát Quán Thế Âm mà chúng ta có thể thuyết minh được thì đã không phải là Bồ-tát Quán Thế Âm chân thực rồi. Nghĩa là, dùng ngôn ngữ không hoàn hảo và những khái niệm ô nhiễm của chúng sinh để trình bày thêm cho Bồ-tát Quán Thế Âm thì Bồ-tát Quán Thế Âm qua ngôn từ ấy chẳng còn đúng như thật với bản thể của ngài. Thế nhưng, nếu không trình bày thêm được điều gì nữa mà lại buông xuôi thì chúng ta sẽ mãi mãi không bao giờ hiểu được ý nghĩa về Bồ-tát Quán Thế Âm. Do đó, mặc dù chỉ là một khái niệm, một danh từ không hoàn hảo nhưng nó không thể không đáng trân trọng, nên đành phải nói ra vậy. 

Bất luận Đức Quán Âm được nhìn nhận là thần, là Phật, là chân lý thì hết thảy đều phải vay mượn ngôn từ để chứng nghiệm, cho nên cần phải chọn lựa hết mọi ngôn từ để nghiên cứu tường tận về ngọn nguồn Đức Quán Âm. Thí như lập kế hoạch leo lên bức vách cao vạn thước, hoặc ngọn núi thiêng đầy hiểm trở nhưng người chưa được trang bị đầy đủ kỹ năng leo núi, chỉ có tinh thần phấn chấn, gạt bỏ mọi khó khăn, từng bước một leo thẳng, vượt qua tầm nhìn cõi tục, cầu sự ứng nghiệm nơi Đức Bồ-tát Quán Thế Âm, thì chẳng lẽ không được cảm ứng sao!

Quán Thế Âm là danh hiệu có nguồn gốc từ tiếng Phạn Avalokiteśvara, là thánh ngữ được dân tộc Āryan1 tại Ấn Độ thời cổ đại sử dụng và lưu truyền. Từ xưa đến nay thuật ngữ tiếng Phạn này được dịch âm thành nhiều danh hiệu, khái quát như sau:

1-A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la; 

2- A-bà-lô-cát-đê-xá-bà-la; 

3-A-phược-lô-chỉ-đê-y-thấp-phạt-la; 

4- A-na-bà-lâu-cát-đê-thâu; 

5- A-bà-lâu-cát-hỗ-thuế; 

6- Bô-lô-yết-để-nhiếp-phạt-la; 

7- Lô-lâu-hoàn2.

Trong bảy cách dịch âm nêu trên, ta thấy ở trước danh hiệu của 6 cách dịch âm đầu có thêm chữ A-lê-da (ārya, tức thánh ngữ); còn dịch thành A-lê-da (a) bô-lô-yết-để-nhiếp-phạt-la, thì trong ấy, da hàm nhiếp cả a, nên ở cách dịch này người ta loại bỏ đi A-lê-da.
Trong Đại bi tâm đà-la-ni cũng có câu: Nam-mô a-lê-da bà-lô-yết-đế-thước-bát-ra-da [namu ārya boryokichisiburaya, tức Quay về thể nhập thánh Quán Thế Âm].

Trong chữ da ấy cũng hàm nhiếp chữ a. Cách dịch âm thứ 7 thành A-lâu-hoàn, nếu xét về cách dịch âm của chữ Avalokiteśvara thì cách dịch này không trọn vẹn, nhìn vào chúng ta thấy đây chẳng phải là Cổ dịch, trở thành gợi ý cho việc “truyền dịch kinh điển Đại thừa”. Chẳng hạn, Chi-lâu-ca-sấm3 là dịch âm của từ Lokarakṣa, đã mang đến điều thú vị cho việc nhìn nhận, nghiên cứu từ một góc độ khác, đặc biệt rất được chú ý.

Như vậy, rốt cuộc Avalokiteśvara có ý nghĩa gì, mang nội dung gì, và dịch ý như thế nào? Thái Lang, Thứ Lang, Tam Lang… là tên gọi của những con người như chúng ta, chỉ là “nhã hiệu” (tên đẹp) mà thôi, chẳng mang ý nghĩa đặc biệt gì. Song, danh xưng của Phật, Bồ-tát thì chứa đựng “ý nghĩa thâm diệu về tự thân các ngài”. Do đó, danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm xưa nay có nhiều dị thuyết, người này lập luận, người kia bác bỏ, cho đến hôm nay còn chưa có được kết luận nào làm tiêu chuẩn. Sở dĩ ngài có danh xưng đa dạng như thế là do tích hợp nhiều quan điểm từ các lĩnh vực mang tính lịch sử, tính địa lý, nên đủ thấy duyên phận chúng sinh đặc biệt sâu dày.

Song, xét về cách dịch ý từ danh xưng tiếng Phạn này, cựu dịch là Quán Thế Âm, Quán Âm; tân dịch là Quán Tự Tại. Ngoài ra, còn có thể nêu ra các tên gọi khác như Khuy Âm, Quán Doãn, Quán Thế Tự Tại, Thế Tự Tại, Quán Thế Âm Tự Tại, Quang Thế Âm, thậm chí còn có danh hiệu là Hiện Âm Thanh… Thế nhưng, thuyết nào chính xác nhất thì cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, đặc biệt là cách dịch Quán Âm, Khuy Âm, Quán Thế Âm, Quang Thế Âm, Hiện Âm Thanh, Quán Tự Tại, không những cần phải biết rõ về niên đại của dịch ngữ ấy và người phiên dịch, mà còn phải đọc lên thành tiếng xem những dịch ngữ kia có phù hợp với ngữ nguyên tiếng Phạn hay không. 

Trước hết, dựa vào trình tự niên đại trong lịch sử để liệt kê từng cách gọi; ngoài thông lệ tuân theo cách dịch trước thời điểm ngài Huyền Tráng gọi là cựu dịch, nhưng ở đây quy định từ ngài La-thập trở về trước trong cựu dịch là cổ dịch, xin quý vị đặc biệt lưu ý cho.

Cổ dịch

1. Quán Âm

- Kinh Thành cụ quang minh định ý, Chi Diệu dịch, đời Hậu Hán, năm thứ 2 niên hiệu Trung Bình (TL.185).

2. Khuy Âm

- Kinh Duy-ma-cật, Chi Khiêm dịch, đời Ngô, từ năm thứ 2 niên hiệu Hoàng Vũ đến năm thứ 2 niên hiệu Kiến Hưng (TL. 223-253).

3. Quán Thế Âm

- Kinh Uất-già trưởng giả sở vấn, Khang Tăng Khải dịch, đời Tào Ngụy, năm thứ 4 niên hiệu Gia Bình (TL.252).
- Kinh Vô Lượng Thọ, Khang Tăng Khải dịch, đời Tào Ngụy, năm thứ 4 niên hiệu Gia Bình (TL.252).
- Kinh Vô cấu thí Bồ-tát ứng biện, Nhiếp Đạo Chân dịch, đời Tây Tấn, cuối niên hiệu Vĩnh Gia (280-312).

4. Quang Thế Âm

- Kinh Chính pháp hoa (bộ 10 quyển), Trúc Pháp Hộ dịch, đời Tây Tấn, năm thứ 7 niên hiệu Thái Khang (TL.286).
- Kinh Quang Thế Âm Đại Thế Chí thọ quyết, Trúc Pháp Hộ dịch, năm thứ 9 niên hiệu Nguyên Khang (TL.299).

5. Hiện Âm Thanh 

- Kinh Phóng quang bát-nhã, Vô-la-xoa dịch, đời Tây Tấn, năm đầu niên hiệu Nguyên Khang (TL.219).

Cựu dịch

1. Quán Thế Âm, Quán Âm 

- Kinh Diệu pháp liên hoa (bộ 8 quyển), Cưu-ma-la-thập dịch, đời Hậu Tần, năm thứ 8 niên hiệu Hoằng Thủy (TL.406).
- Kinh Bi hoa (bộ 10 quyển), Đàm-vô-sấm dịch, năm thứ 8 niên hiệu Huyền Thủy (TL.419).
- Kinh Hoa nghiêm (bộ 60 quyển), Phật-đà Bạt-đà-la (tức Giác Hiền) dịch, đời Đông Tấn, năm thứ 3 niên hiệu Nguyên Hy (TL.420).
- Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Cương-lương-da-xá dịch, đời Lưu Tống, năm thứ 7 niên hiệu Nguyên Gia (TL.430).
- Kinh Quán Thế Âm Bồ-tát thọ ký, Đàm-vô-kiệt dịch, năm thứ 30 niên hiệu Nguyên Gia (TL.453).
- Kinh Thiêm phẩm Pháp hoa (bộ 7 quyển, phẩm 27), Xà-na-quật-đa và Đạt-ma-cấp-đa cùng dịch, đời Tùy, năm đầu niên hiệu Nhân Thọ (TL.601).

2. Quán Thế Tự Tại 

- Pháp hoa kinh luận, Bồ-đề-lưu-chi dịch4, đời Hậu Ngụy, năm thứ 5 niên hiệu Chính Thủy (TL.508).

Tân dịch

1. Quán Tự Tại 

- Kinh Đại bát-nhã ba-la-mật-đa, Huyền Tráng dịch, đời Đường, năm thứ 3 niên hiệu Long Sóc (TL.663).
- Kinh Hoa nghiêm (bộ 80 quyển), Thực-xoa-nan-đà dịch, đời Đường, từ năm đầu niên hiệu Chứng Thánh đến năm thứ 2 niên hiệu Thánh Lịch (TL.695-699).
- Kinh Đại Bảo Tích, Vô Lượng Thọ Như Lai hội, Bồ-đề-lưu-chi dịch, đời Đường, năm thứ 2 niên hiệu Thần Long đến năm thứ 2 niên hiệu Tiên Thiên (TL.706-713).
- Kinh Đại thừa Vô Lượng Thọ trang nghiêm, Pháp Hiền dịch, đời Tống, năm thứ 2 niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (TL.982).

2. Quán Thế Âm, Quán Âm 

- Kinh Thủ lăng nghiêm, Bát-lạt-mật-đế dịch, năm đầu niên hiệu Thần Long (TL.705).

3. Quán Thế Tự Tại 

- Kinh Đại Tỳ-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì, Thiện Vô Úy dịch, đời Đường, năm thứ 12 niên hiệu Khai Nguyên (TL.730).

Các danh hiệu được liệt kê trích dẫn từ các kinh luận vô hạn vô biên, nhưng chỉ xem qua những danh xưng đã kể, lập tức chúng ta sẽ hiểu rằng:

Thứ nhất, dịch ngữ Quán Âm không phải là cách gọi tắt của từ Quán Thế Âm, vì dịch ngữ này đã tồn tại độc lập từ rất sớm.

Thứ hai, dịch ngữ Quán Thế Âm không phải bắt đầu từ thời ngài La-thập, mà tên gọi này đã được sử dụng trước đó 150 năm, tức vào thời đại Tào Ngụy, Tây Tấn.

Thứ ba, dịch ngữ Quán Tự Tại chẳng phải do bản thân ngài Huyền Tráng sáng tạo từ thời Đường, mà khoảng một thế kỷ rưỡi trước đó đã xuất hiện thuật ngữ được phiên dịch là Quán Thế Tự Tại. Đặc biệt, tài liệu quý giá do Tăng Triệu (384-414) trước thuật, được mọi người chú ý nhất, đó là Chú Duy-ma-cật kinh, có giải thích ý nghĩa của từ Quán Thế Âm. Trong tác phẩm ấy ghi rõ rằng: “Khi người đời gặp khổ nguy hoạn nạn, xưng niệm danh hiệu ngài, Bồ-tát quán nghe âm thanh ấy, liền cứu họ giải thoát. Cũng gọi ngài là Quán Thế Niệm, Quán Tự Tại hoặc Quán Thế Tự Tại5. Tăng Triệu là một học giả trẻ tuổi sống cùng thời đại ngài Cưu-ma-la-thập. Nếu tài liệu này không sai thì chúng ta có thể biết được lúc ấy ngài La-thập cũng đã sử dụng dịch ngữ Quán Tự Tại rồi.

Thứ tư, đối với thời đại Tân dịch, các kinh như kinh Thủ lăng nghiêm đã sử dụng dịch ngữ Quán Thế Âm, sự thật đã thấy rất rõ ràng thì điều này chứng tỏ dịch ngữ Quán Thế Âm là không sai.

Thế nhưng, tại sao có việc phiên dịch bất đồng như vậy? Dịch ngữ nào đúng, dịch ngữ nào sai? Có dịch ngữ nào để đối chiếu sự khác biệt với nguyên ngữ hay không? Những sự kiện này còn có chỗ nghi ngờ, cần phải nghiên cứu thêm cho kỹ. Để giải quyết vấn đề ấy, trước hết chúng ta hãy lắng nghe ý kiến của ngài Huyền Tráng (600-664). 

Trong Đại Đường Tây Vực ký, quyển 3 có nói: “Có tượng Bồ-tát A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la (Avalokiteśvara), người Đường gọi là Quán Tự Tại, đem âm sau phối với âm trước thành một từ kép của tiếng Phạn, nếu phân chia văn tự, phân tách âm thành hai thì từ A-phược-lô-chỉ-đa dịch là Quán; đê-thấp-phạt-la dịch là Tự Tại. Cựu dịch thành Quang Thế Âm, Quán Thế Âm, hoặc Quán Thế Tự Tại đều sai lầm cả6.

Sau này, các môn đệ của Ngạn Tông dĩ nhiên tuân thủ trật tự này nên các học giả chuyên môn của Phật giáo cũng có nhiều người tuân theo. Thời cận đại, khuynh hướng này rất thịnh hành, người Nhật là Cao Nam Thuận Thứ Lang (1866-1945) chủ trương: “Danh xưng Quán Âm trong tiếng Phạn là Avalokiteśvara (A-phược-lộ-chỉ-đế-thấp-phạt-la), Quán Tự Tại là dịch đúng; các tên gọi Quán Âm, Quán Thế Âm là dịch sai”, rồi ông đưa ra kết luận: “Quán Âm vốn có tên là Ārya-avalokiteśvara, dịch âm là A-rị-da A-phược-lộ-chỉ-đế-thấp-phạt-la; Cựu dịch là Thánh Quán Âm, Quang Thế Âm, Quán Thế Âm; Tân dịch là Quán Tự Tại. Quán Tự Tại là dịch ngữ đúng, còn các tên gọi khác đều sai; đặc biệt, còn sự việc Quán nghe âm thanh cuộc đời là hoàn toàn sai, vì trong danh xưng gốc hoàn toàn không mang ý nghĩa này7.

Thế nhưng, Lượng Tam Lang (1872-1946, người Nhật) lại phản bác gay gắt vấn đề này. Ông biện luận rằng: “Gần đây, nước ta thường dựa vào thuyết của các nhà Tân dịch, cho rằng Quán Tự Tại là dịch ngữ phù hợp, còn các danh xưng như Quán Thế Âm… đều là dịch sai. Theo sở kiến của chúng tôi, nhóm mà tìm lỗi cho rằng Cựu dịch là sai này cũng là sai lầm8. Phiên dịch có cách trực dịch, cũng có cách dịch ý, cho nên dịch thành Quán Thế Âm là thuộc cách dịch ý. Nếu đúng như vậy thì chúng ta đã rơi vào chỗ do dự không thể phán quyết được ai đúng ai sai. Do đó, cần phải nghiên cứu về Nguyên ngữ học để giải thích. 

Trong tác phẩm Hoa nghiêm kinh thám huyền ký, 20 quyển, Đại sư Pháp Tạng, tự Hiền Thủ (643-712) trình bày vấn đề này như sau: “Quán Thế Âm, lại gọi là Quang Thế Âm, còn gọi là Quán tự tại, tiếng Phạn là Bô-lô-yết-để-nhiếp-phạt-la. Ở đây, Bô-lô-yết-để có nghĩa là Quán; Tỳ-lô có nghĩa là quang, do phát âm bô-lô và tỳ-lô gần nhau nên có người phiên là quang; nhiếp-phạt-la gọi là tự tại; nhiếp-đa là âm, đã tra cứu các kinh điển bản tiếng Phạn thì có kinh chép là nhiếp-đa, có kinh chép là phạt-la, theo cách phiên dịch ở đây là tương đồng9. Trong nguyên bản nhiếp-phạt-la và nhiếp-đa khác nhau hoàn toàn, điều này rất rõ. Ngoài ra, nhà ngữ học Ấn Độ uy tín nhất là Lập Hoa Tuấn Đạo (1877-1955, người Nhật) đã phiên dịch trung thực các danh xưng Quán Âm, Quán Tự Tại, dịch ngữ được khôi phục nguyên trạng tiếng Phạn.

Quang Thế Âm: āloka + loka + svara
Quán Thế Âm: avaloka (avalokita) + loka + svara
Quán Thế Tự Tại: avaloka (avalokita) + loka + iśvara
Quán Âm: avaloka (avalokita) + svara
Quán Tự Tại: avaloka (avalokita) + iśvara

Đương nhiên, đối với cách dịch khôi phục nguyên trạng này tôi không hoàn toàn tán đồng, nhưng cảm thấy rất thú vị. Đặc biệt, hai dịch ngữ phía sau có phần phù hợp, rất có giá trị về mặt tham khảo. Quang Thế Âm phiên dịch theo cách khôi phục nguyên trạng còn có “ābhā+loka+svara”.

Để khảo sát thêm bước nữa đối với nguyên ngữ học, các học giả Tất-đàm10 Nhật Bản vào triều đại Bình An đã cân nhắc và đưa ra ý kiến mang màu sắc khác, như Đại sư Minh Giác. Trong Tất-đàm yếu quyết, quyển 3, đối với “Tên gọi khác nhau giữa Cựu dịch và Tân dịch về danh xưng Bồ-tát Quán Thế Âm, rốt cuộc cách dịch nào sai”, ngài trả lời thế này: “Phiên dịch có bốn cách: Địch đối phiên (chữ theo chữ), Hội ý phiên (dịch ý), Tăng tự phiên (thêm chữ), Dị sự phiên (căn cứ vào sự kiện)”. Avalokita dịch là Quán; iśvara dịch là tự tại, đây là cách Địch đối phiên.

Avabhāsa có nghĩa là quang, cho nên ava cũng được gọi là quang. Avaloka có nghĩa là quán, cho nên ava cũng được gọi là quán, đây thuộc về cách Tăng tự phiên.
loka(i)śvara trong Tân dịch gọi là Quán (thế) tự tại, vậy thì sẽ không có cách Tăng tự phiên sao? Ý nghĩa chân thật của lokita là thế; svara là âm, hai chữ s và ś thấy rất nhiều trong Phạn văn, công dụng của hai chữ này mặc dù tương đồng, nhưng âm nào đúng thì hoàn toàn không biết, chỉ có dựa vào hình dạng của chữ để phiên dịch mà thôi.

Trong Nhất thiết kinh âm nghĩa, Huyền Ứng nói: “Trong bản Quy-tư gọi Táp (sa)-bà-la, dịch là âm; bản Thiên Trúc xưng là Thấp-bà-la, nên dịch là tự tại [xem kỹ chính văn]”. Do đó, dựa vào từ śvara mà phiên dịch thành tự tại, dựa vào từ svara mà phiên dịch thành âm. Đây thuộc về Dị sự phiên.

Do một chữ bao hàm hai nghĩa, cho nên gộp lại gọi là Âm tự tại. Như chữ siṃha vốn có hai nghĩa là sư tử và vô úy, nên hợp xưng là sư tử vô úy. Chữ jina vốn có hai nghĩa là nhân giả (bậc có lòng nhân) và thắng giả (bậc hơn hẳn), nên hợp xưng là nhân thắng giả. Do một chữ bao quát hai nghĩa như vậy nên không thể nào bảo là nghĩa này đúng, nghĩa kia sai. Hay nói cách khác, nhìn nhận từ lập trường “Dị sự phiên”, Đại sư Minh Giác cho rằng, các nhà Cựu dịch và các nhà Tân dịch dựa vào bản tiếng Phạn làm chỗ y cứ thì mỗi người phiên dịch có chỗ bất đồng. Vì vậy, sự khác nhau giữa các dịch ngữ, rất khó để xác định được ai đúng ai sai. Quả thực, đây là kiến giải vô cùng sâu sắc.

Ngoài ra, dựa vào phân tích của nguyên ngữ học, chúng ta có thể hiểu được rõ ràng hơn, đặc biệt trong Huyền Ứng âm nghĩa11, có nói: “Quán Thế Âm và Quang Thế Âm theo cựu dịch đều sai, nghiên cứu các bản đa-la-diệp12 của Thiên Trúc đều gọi xá-bà-la (śvara), phải dịch là tự tại; còn các bản kinh từ Tuyết Sơn (phương Bắc) truyền đến, đều gọi sa-bà-la (svara), phải dịch là âm. Do hai âm xá và sa gần nhau nên có sự sai lầm13.

Dựa vào thuyết này, śvara [thấp (xá)-bà-la] dịch là tự tại có xuất xứ từ bản Thiên Trúc; svara [sa (táp)-bà-la] dịch là âm có xuất xứ từ bản Quy-tư, nên yếu chỉ của thuyết này đã sáng tỏ. Thế nhưng, theo cách kiến giải của Huyền Ứng, ông cho rằng gọi Quán Tự Tại cũng được, mà gọi Quán Thế Tự Tại cũng được, thậm chí gọi Quán Thế Âm cũng xong, tất cả đều chẳng phải dịch sai.

Các luận chứng nêu ra còn có vấn đề cần bàn về hai chữ “sai lầm” mà Tây Vực ký nói, từ nhận định thông thường chúng ta cũng có thể biết, một dịch giả lớn như La-thập sẽ không mắc sai lầm trong cách phiên dịch như thế.

Ngài Cưu-ma-la-thập (kumārajiva, 344-413) sinh ở nước Quy-tư (Kucina) 14, đến Trường An vào tháng 12 năm thứ 3 niên hiệu Hoằng Thủy (401), được nhà Hậu Tần trân trọng tiếp đón với cương vị Quốc sư, hoàn thành công việc dịch kinh vĩ đại gồm 74 bộ, 380 quyển15, cho nên ngài không thể mắc sai lầm đơn giản về từ ngữ như thế được. Ngoài ra, không những chữ ấy thấy xuất hiện ở một hai chỗ mà toàn bộ những kinh điển được ngài phiên dịch đều ghi là Quán Thế Âm. Không những chỉ có ngài La-thập dịch như vậy mà rất nhiều nhà phiên dịch cùng thời đại với ngài, thậm chí về giai đoạn sau này nữa cũng đều dịch giống như thế. Thậm chí ngài Phật-đà-bạt-đà-la (359-429) từ vùng bắc Ấn Độ sang, ngài Đàm-vô-sấm (385-433) vượt đường biển sang cũng đều sử dụng dịch ngữ giống nhau. Vậy thì việc này có gì quái lạ đâu! Hơn nữa, trước thời ngài La-thập, ngay cả Khang Tăng Khải (Saṃghavarman) và Nhiếp Đạo Chân cũng đều không chút ngần ngại khi phiên dịch [Avalokiteśvara] thành Quán Thế Âm. Sự thật đã phơi bày rõ ràng nên thực tình chúng tôi không thể khẳng định thuyết của các nhà Cựu dịch là sai.

(Còn tiếp)

Thích Hoằng Trí dịch 

_____________

Nguyên tác tiếng Nhật: 觀世音菩薩の研究 của Hậu Đằng Đại Dụng (後藤大用).

Bản dịch tiếng Hoa: 觀世音菩薩本事 của Hoàng Giai Hinh (黃佳馨).
(Trích chương thứ nhất, tác phẩm, Tìm hiểu về Bồ-tát Quán Thế Âm, Tỳ-kheo Thích Hoằng Trí dịch. Tác phẩm sắp xuất bản)

(1) Dân tộc Āryan tương truyền cư trú tại một vùng thuộc miền Trung Á vào khoảng 3.000 năm trước Tây lịch và di cư đến vùng Ngũ hà khoảng 1.500 năm trước Tây lịch.

(2) Tác giả chú thích: “Từ Lô-lâu-hoàn/廬樓桓 có xuất xứ từ kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác (Đại chính tạng, quyển 10, tr.291)”, nhưng trong kinh này chỉ có từ “Hạp-lâu-hoàn/廅樓亘” mà không có tên “Lô-lâu-hoàn” như tác giả nói [T12n0361, tr.290a22].

(3) Chi-lâu-ca-sấm/支婁迦讖: (147-?, Skt. Lokaṣema), người nước Nguyệt-chi, có khi gọi là Nguyệt-thị. Khoảng cuối đời Hán Hoàn đế, ngài đến Lạc Dương. Ngài phiên dịch rất nhiều bộ kinh vào khoảng niên hiệu Quang Hòa và Trung Bình (178-188).

(4) Có hai nhà phiên dịch cùng tên là Bồ-đề-lưu-chi/菩提流支 (Skt. Bodhiruci). Người thứ nhất sống vùng Bắc Ấn, đến Lạc Dương vào năm đầu niên hiệu Vĩnh Bình đời Hậu Ngụy (508), bắt đầu truyền dịch Pháp hoa kinh luận, Pháp tập kinh và Vô lượng thọ kinh luận, còn có Quán Vô lượng thọ kinh do Đàm Loan chú giải. Người thứ hai sống ở vùng Nam Ấn, do Đường Cao Tông thỉnh mời đến Trung Quốc năm thứ 2 niên hiệu Trường Thọ (693), phiên dịch các kinh như Đại Bảo Tích..., còn kế thừa di nghiệp của ngài Huyền Tráng, là vị cao tăng viên tịch năm thứ 15 niên hiệu Khai Nguyên (727), thọ 166 tuổi.

(5) Chú Duy-ma-cật kinh, quyển 1, 注維摩詰經卷第一 [T38n1775, tr.331a25].

(6) Đại Đường Tây Vực ký, quyển 5, 大唐西域記卷第五 [T51n2087, tr.883b21].

(7) Nhật Bản, Đế quốc văn học, 8 quyển, số 1 và số 3.

(8) Giải thoát Phạn ngữ, tr.241.

(9) Hoa nghiêm kinh thám huyền ký, quyển 19.

(10) Tất-đàm/悉曇: (Skt. siddhaṃ hoặc siddhāṃ) Hán dịch là Thành tựu, Thành tựu cát tường. Từ gọi chung các chữ cái (mẫu âm, tử âm, tức là nguyên âm và phụ âm) của tiếng Phạn. 

(11) Huyền Ứng âm nghĩa/玄應音義: tác phẩm, gồm 25 quyển, do Huyền Ứng đời Đường soạn, còn gọi là Nhất thiết kinh âm nghĩa/一切經音義. Nội dung ghi chép trong tác phẩm này từ kinh Hoa nghiêm đến luận Thuận chính lý (Abhidharma-nyāyānusāra), gồm  48 bộ kinh luận, mà những câu chữ, danh tướng và âm dịch trong đây đều có thêm phần chú thích. Đây không những là tác phẩm tối cổ, mà còn giải thích chính xác về âm nghĩa hiện tồn, được các học giả tin cậy.

(12) Đa-la-diệp: (Skt. pattra), gọi đủ là bối-đa-la-diệp/貝多羅葉, gọi tắt là bối diệp, bối-đa. Loại lá cây dùng để viết tư liệu hoặc văn kinh. Ngày xưa khi chưa phát minh ra giấy, người ta dùng lá bối-đa thay giấy để viết. Pattra tuy là tên của loài thực vật, mà tên khoa học là Laurus oassia, nhưng cũng chỉ cho lá của loại thực vật phổ thông, hoặc loại lá cây dùng để viết sách. Trong đó, loại lá thích hợp nhất cho việc ghi chép là cây đa-la (Skt. tala).

(13) Huyền Ứng âm nghĩa, quyển 5. Tác phẩm này gồm 25 quyển, do Huyền Ứng soạn. Sư sống vào đời Đường, học rộng, nghe nhiều, nhớ lâu, rất am tường về âm vận và giải thích văn tự. Nội dung sách Huyền Ứng âm nghĩa chú thích những tự cú, pháp số và âm nghĩa khó hiểu trong 458 bộ kinh luận, từ kinh Hoa nghiêm cho đến luận Thuận chính lý. Đây là bộ sách âm nghĩa xưa nhất hiện còn và mức độ giải thích rất chính xác, rất được các học giả coi trọng.(Nd)

(14) Nước Quy-tư (kucina) nằm giữa miền Bắc của Đông Tolkistan, phía Bắc dựa vào dãy núi Thiên Sơn, phía Nam giáp ranh với sông Tarim, nhìn về sa mạc Takramakau, phía Đông tiếp giáp với Agini, phía Tây là Bạt-lộc-ca (Bālukā).

(15) Khai Nguyên thích giáo lục, quyển 4.

Ý kiến phản hồi

Xin vui lòng gõ Tiếng Việt có dấu