Cập nhật lúc 04:16:27 11-02-2020 (GMT+7)

Đồng Nai: Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Bodhi Sammatta Mahā Thero Giác Chánh tân viên tịch

Do niên cao lạp trưởng, Hòa thượng đã an nhiên tự tại, xả bỏ nhục thân, thu thần viên tịch vào lúc 17h45 ngày 7/2/2020 (14 tháng Giêng năm Canh Tý) tại chùa Bửu Đức. Hòa thượng trụ thế 74 năm – 50 năm hạ lạp.

Trưởng lão Hòa thượng Bodhi Sammata Mahā Thero Giác Chánh là:

–  Giáo thọ sư Luận tạng Vi Diệu Pháp.

– Bậc Tôn đức Giáo phẩm Phật giáo Nam tông Kinh.

– Viện chủ chùa Bửu Đức (số C61A, đường Huỳnh Văn Nghệ, khu phố 5, TP.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai).

Do niên cao lạp trưởng, Hòa thượng đã an nhiên tự tại, xả bỏ nhục thân, thu thần viên tịch vào lúc 17h45 ngày 7/2/2020 (14 tháng Giêng năm Canh Tý) tại chùa Bửu Đức. Hòa thượng trụ thế 74 năm – 50 năm hạ lạp.

Lễ nhập kim quan chính thức cử hành vào lúc 8 giờ ngày 8/2/2020 (15 tháng Giêng năm Canh Tý). Kim quan Hòa thượng được tôn trí tại chùa Bửu Đức (số C61A, đường Huỳnh Văn Nghệ, khu phố 5, TP.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai)

Lễ viếng bắt đầu vào lúc 9 giờ ngày 8/2/2020 đến 11 giờ ngày 11/2/2020 (nhằm 15 đến 18 tháng Giêng năm Canh Tý).

Lễ động quan được trang nghiêm cử hành vào lúc 13 giờ ngày 11/2/2020 (nhằm 18 tháng Giêng năm Canh Tý). Sau đó, kim quan Hòa thượng được cung tiễn đến đài hỏa táng TP.Biên Hòa để làm lễ Trà-tỳ.

Chư Tăng chùa Hạnh Phúc Tăng (Vĩnh Long) kính viếng Tang lễ Trưởng lão Hòa thượng Giác Chánh

 

TIỂU SỬ TRƯỞNG LÃO  HÒA THƯỢNG SAMATTA MAHĀ THERO GIÁC CHÁNH

Hòa thượng Bodhi Sammatta Mahā Thero Giác Chánh (sinh năm 1947, tại thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long), thế danh là Phạm Văn Chánh. Thân phụ Ngài là cụ ông Phạm Văn Trị (1904 –1996), thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Hai (1910 – 1966). Thời tuổi trẻ ngài sống chung với cha mẹ, đến năm 20 tuổi lập gia đình với cô Nguyễn Thị Mười. Năm 1967, vài tháng sau khi con gái chào đời và cũng là đứa con duy nhất, Ngài bỏ nhà đi xuất gia với Hòa thượng Tịnh Sự ở chùa Viên Giác (TP.Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long) và theo chân thầy học đạo, đặc biệt chuyên về Luận tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) suốt 5 năm.

Năm 1970, Ngài tháp tùng Hòa thượng Bổn sư tìm ra Hòn Nghệ nằm ngoài khơi biển ở tỉnh Kiên Giang để tu tập thiền định trong hoàn cảnh một thầy một trò. Năm 1971, Ngài xin phép thầy Bổn sư ra chùa Tam Bảo (Vũng Tàu) học thiền Tứ niệm xứ với Hòa thượng Giới Nghiêm được một năm. Năm 1973, Ngài vào học ở chùa Phật Bảo (Sài Gòn) của ngài Hòa thượng Giới Nghiêm.

Trong khoảng thời gian từ 1970 đến 1975, Ngài là một bậc Giảng sư ở Sài Gòn và các tỉnh Vũng Tàu, Mỹ Tho, Vĩnh Long và đã dành thời giờ biên soạn, ấn hành các đầu sách như “Pháp âm” 2 tập, “Pháp thừa” 2 tập, “Chánh Đạo Ngâm Khúc”, “Đạo Trường Siêu Thanh” (không xuất bản), “Vi Diệu Pháp Nhập Môn” (in sau 1975).

Năm 1976, Ngài đã cùng Hòa thượng Thiện Pháp vào rừng Bình Sơn để xây dựng ngôi chùa Thiền Quang (huyện Long Thành, Đồng Nai) mái tranh vách đất và nuôi dạy gần 20 vị Sa di cùng giới tử. Đây chính là chỗ xuất thân của một thế hệ vàng gồm nhiều vị Tăng thành tựu đạo nghiệp sau này như Thượng tọa Giác Giới – Viện chủ tổ đình Viên Giác (Vĩnh Long), Hòa thượng Bửu Chánh – Viện chủ thiền viện Phước Sơn (TP.Biên Hòa, Đồng Nai), Thượng tọa Giác Đẳng – Viện chủ chùa Pháp Luân (Mỹ), Thượng tọa Giác Trí – Viện chủ chùa Hộ Pháp (Vũng Tàu), Thượng tọa Chánh Minh – viện chủ chùa Bồ Đề (Vũng Tàu).

Điều đáng nói là trong thời điểm 1977 – 1980 điều kiện sinh hoạt cực kỳ khó khăn, cả chùa phải dùng cơm độn khoai mì, nhưng các lớp học Vi Diệu Pháp vẫn đều đặn. Đặc biệt với số lượng 12 vị Tăng trẻ, nhị vị Hòa thượng Giác Chánh và Thiện Pháp (nay là viện chủ chùa Thiền Quang I) đã thành lập Ban Hoằng pháp với các tiểu ban Pháp chế, Giảng sư, Giám luật…

Số lượng ít nhưng làm việc hiệu quả, với sự hỗ trợ đắc lực của các vị nữ cư sĩ như cô bảy Vĩnh Phúc – Giáo thọ Vi diệu pháp, gia đình cô Song Ánh, cô Diệu Lạc (nay đã xuất gia với thiền sư Kim Triệu) và cụ Đốc Hiểu cúng dường bộ Tam tạng tiếng Thái trước khi mất năm 1978. Chính Ngài sơ tổ Hộ Tông và Hòa thượng Hộ Giác cũng từng vào tận ngôi Chùa trong rừng này để hỗ trợ tinh thần cho nhóm Tăng trẻ. Xúc động nhất là ngài Tăng thống đương nhiệm của Phật giáo Nam tông Kinh lúc đó là Hòa thượng Ấn Lâm ở trụ sở Kỳ Viên (Sài Gòn) đã tự tay phơi khô từng ổ bánh mì khất thực được để gởi người mang ra chùa rừng Thiền Quang nuôi nhóm Tăng trẻ và tạo điều kiện cho các vị vào dạy học tại chùa Kỳ Viên là trụ sở Giáo hội thời đó.

Số lượng thành viên Ban Hoằng pháp tuy không nhiều, nhưng phần hành của mỗi tiểu ban rất rõ ràng và làm việc hiệu quả. Ban Giảng sư đến từ các tỉnh, mỗi ba tháng có cuộc họp mặt tại chùa rừng Thiền Quang để báo cáo những việc đã làm được hay trình bày những khó khăn đang gặp phải. Ban Giám luật có trách nhiệm quan sát và kiểm tra các giới tử trước khi chư Tăng bỏ phiếu quyết định có đồng thuận cho đắp y thọ giới hay không? Tất cả đều là phiếu kín. Các giới tử muốn thọ giới Sa-di phải thuộc lòng 105 giới luật bằng tiếng Pāli và 14 phận sự Tăng sĩ bằng tiếng Việt, cùng với phần hạnh kiểm được chư Tăng tại chùa nhận xét.

Sau đó, Hòa thượng Giác Chánh đã rời khỏi chùa Thiền Quang về an cư một mùa mưa tại chùa Bửu Long (quận 9) khi đó ngài Sơ tổ Hộ Tông đã đi Pháp. Sau mùa an cư này, Hòa thượng Giác Chánh trở về huyện Long Thành (Đồng Nai) nhận đất cúng dường của nữ thí chủ Đại Tín để xây dựng chùa Thiền Quang II. Và tất cả chư Tăng gọi chùa Thiền Quang cũ trong rừng là Thiền Quang I cho đến hôm nay.

Đầu năm 1983, Hòa thượng Giác Chánh phát động phong trào học thuộc Tam tạng Pāli bằng cách giao cho mỗi vị một bộ kinh để học thuộc lòng bằng tiếng Pāli, và mỗi 3 tháng lại có một cuộc thi trùng tụng. Bất cứ chư Tăng hay cư sĩ nào trong 3 tháng trước đó đã học xong 120 trang kinh tạng Pāli thì được trao tặng một phần thưởng có tên gọi là giải Nibbāna (Niết bàn). Ba lần Nibbāna thì được một lần Saddhamma với phần thưởng nhiều gấp đôi. Những người nhận học và thi Tam tạng Pāli thời đó theo phát động của Ngài có khoảng 20 người. Bên cạnh phong trào học thuộc Tam tạng, các giảng sư phải trải qua các buổi khảo nghiệm trình độ Vi Diệu Pháp với chính ngài Giác Chánh. Lúc này Hòa thượng Tịnh Sự vẫn còn tại tiền. Và nhân chứng cho các sự kiện trên đây hiện vẫn còn không ít người.

Cũng do nhân duyên phong trào học thuộc lòng Tam tạng chỉ kéo dài khoảng được 3 năm thì ngừng hẳn. Đến đầu năm 1987, Hòa thượng Giác Chánh lại tiếp tục phát động phong trào phiên dịch kinh điển từ các nguồn tiếng Anh và tiếng Thái. Phần tiếng Thái là do cư sĩ Ngô Văn Kỷ đứng ra hướng dẫn tiếng Thái cho chư Tăng. Các bộ sách tiếng Thái được đặt mua từ Thái Lan do cư sĩ Trần Bá Thế mang về. Do xét thấy phần Luật tạng chưa được phiên dịch tại Việt Nam nên Ngài đã ra phần thưởng hậu hỷ cho những vị nào dịch sách Luật. Chính nhờ phong trào này mà toàn bộ giáo trình Vi Diệu Pháp của Đại học Rakhang (Thái Lan) được dịch toàn bô sang tiếng Việt và phổ biến rộng rãi cho chư Tăng.

Chính Hòa thượng Giác Chánh là người đầu tiên và cũng là người duy nhất tổ chức pháp hội mỗi ba tháng ở các chùa trong nhóm đệ tử Hòa thượng Tịnh Sự. Nội dung của các pháp hội này là những chư Tăng hay cư sĩ nào có viết bài thuyết trình về các đề tài giáo lý đều có thể ghi danh và được sắp xếp thời gian để thay phiên nhau lên thuyết trình trong mỗi kỳ pháp hội với thời gian kéo dài suốt đêm. Ở các chùa ngoài nhóm thì mỗi năm chỉ có nhiều lắm là 2 đêm pháp hội và nội dung không dày đặc như vậy. Thường chỉ là một hai thời pháp của chư Tăng rồi tiếp theo là các tiết mục tụng kinh, ngâm kệ Pāli, ngồi thiền đại chúng và đố vui Phật pháp. Việc khích lệ chư Tăng và Cư sĩ thuyết trình Phật pháp đã được Ngài đặc biệt quan tâm và tổ chức từ trước năm 1980 cho đến sau 1990.

Từ năm 1989, ngài rời khỏi chùa Thiền Quang và về xây dựng chùa Bửu Đức ở TP.Biên Hòa (Đồng Nai) trên ngôi chùa cũ được gia đình sư Pháp Bửu hiến cúng. Tại đây mỗi chủ nhật chùa đều có một buổi giảng pháp cho Phật tử địa phương do chính Ngài hoặc chư Tăng trong chùa đảm nhiệm.

Theo thời gian, tuổi đời càng lớn, Ngài từ chối dần công việc của giáo hội, chỉ còn giữ lại vai trò Giảng sư cho các trường hạ trong tỉnh Đồng Nai, không còn hoằng pháp nơi xa nữa.

Thời gian tịnh cư tại chùa Bửu Đức đã cho Ngài cơ hội đọc sách và biên soạn kinh điển theo đúng ước mơ từ thời trẻ. Năm 1991, theo lời yêu cầu của một Phật tử thân tín, Ngài đã tra lục kinh điển để thực hiện bộ Trường thi có tên là “Phật Sử Diễn Ca” dài 10.000 câu (gấp năm lần truyện Kiều). Bộ này khi tái bản được đặt tựa mới là “Đấng Thiên Nhân Sư Gotama”. Từ sau năm 2000, Ngài dành nhiều thời gian để nghiên cứu và thực tập pháp môn Niệm xứ.

Từ năm 2005, Hòa thượng Giác Chánh đã dành trọn thời gian để đọc kỹ và san định hai bộ “Thanh tịnh đạo” và “Vô ngại giải đạo”. Tiếc là mãi cho đến lúc Hòa thượng viên tịch, công trình này dù đã hoàn tất, vẫn chưa được ấn hành. Bên cạnh công việc này, Ngài đã nhận lời thỉnh cầu của chư Tăng vào góp mặt trong các buổi giảng trên Paltalk. Sự có mặt của Hòa thượng đã làm cho các buổi giảng trở nên ấm cúng và chắc chắn là có phần thâm hậu hơn.

Cuộc đời Ngài chỉ vỏn vẹn 74 năm tuổi đời với 50 năm tuổi đạo nhưng tâm nguyện của Hòa thượng không biết cho đến thế hệ nào mới có thể làm tròn được. Được biết, một số ngôi chùa do Ngài trực tiếp khai sơn hoặc gián tiếp xây dựng như: chùa Thiền Quang II (Đồng Nai), chùa Nguyên Thủy (TP.HCM), chùa Quảng Nghiêm (Đồng Nai), chùa Cồ Đàm (Đồng Nai), chùa Siêu Lý (Vĩnh Long), chùa Ngọc Đạt (Đồng Nai), chùa Thiền Quang I (Đồng Nai), chùa Siêu Lý (TP.HCM), chùa Viên Giác (Vĩnh Long), Tứ Phương Tăng (Vĩnh Long).

Hòa thượng là vị Giảng sư, bậc Thầy được kính mến trong hàng xuất gia cũng như tại gia, thầm lặng nhưng kiên định với con đường phụng sự Phật pháp trong hạnh nguyện làm sứ giả của Đức Thế Tôn.

        

Tin và ảnh: Hộ Nhãn
Nguồn: Phật Sự Online

Ý kiến phản hồi

Xin vui lòng gõ Tiếng Việt có dấu