I. Dẫn nhập:
Sau khi chuyển Pháp luân tại Vườn nai (isipatana) hoá độ 5 anh em ngài Kiều[1]trần-như (koṇḍañña), kế đến độ Yassa và 54 người bạn, lúc bấy giờ Tăng đoàn đã có 60 vị A-la-hán đầu tiên, đức Phật khuyến khích chư Thánh đệ tử: “Này các Tỷ[1]kheo, hãy du hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người.” Đây là bản hoài cứu khổ độ sanh của đức Phật. Bản hoài đó đã trở thành lý tưởng sống, nhiệm vụ và trách nhiệm của người con Phật là truyền tải thông điệp tinh thần hướng thượng giải thoát đến cho muôn loài, chúng sanh, con người.
Trong xu thế đất nước ta đang trên đà phát triển và hội nhập quốc tế; Giáo hội Phật giáo Việt nam ngày càng trở nên kiện toàn và lớn mạnh hơn; các ban ngành, viện cũng đã và đang ra sức phấn đấu vươn lên hầu nắm bắt và áp dụng có chọn lọc, các công nghệ truyền thông, kỹ thuật số và những phát minh khoa học ứng dụng trong tất cả các phương diện sinh hoạt xã hội. Sau đây là vài lời nhận định liên quan trực tiếp đến vấn đề hoằng pháp thời Phật còn tại thế và hoằng pháp thời hiện đại.
II. Nội dung:
Nói đến hoằng pháp người ta thường nhắc đến phương ngôn cổ đức đã đề ra: “Hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi bản hoài”. Đã là bản hoài và gia vụ thì tất nhiên chúng ta là những người con Phật nói chung, đều có bổn phận hoằng truyền chánh pháp, chỉ khác nhau là trực tiếp hay gián tiếp mà thôi. Nhìn về quá khứ, đức Như Lai sau khi thành đạo, Ngài đã đến Lộc Uyển (sarnath) và tại đây lần đầu tiên Ngài đã Tam chuyển Tứ đế pháp luân. Một giáo lý căn bản của Tam Thừa Thánh Quả, đồng thời giáo pháp này cũng là nền tảng của nhơn-thiên thừa và tam hiền, thập Thánh nói chung. Đặc biệt, thời giáo này đã xác lập Tam Bảo (Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo). Nghĩa là chính thức khẳng định đạo Phật đang hiện hữu trên cuộc đời. Sau khi năm anh em Kiều-trần-như (koṇḍañña) đã chứng đạo quả A-la-hán (arahant), bấy giờ đức Như Lai mới đề cập đến vấn đề hoằng pháp, truyền trao giáo pháp mà Ngài đã giác ngộ và giải thoát cho tất cả mọi người. Có thể nói, đây chính là vấn đề nền tảng cho công cuộc hoằng pháp của Phật giáo từ ngàn xưa cho đến nay. Nói cách khác, các Ngài đã chứng đắc đạo quả, sau đó mới đem những gì tự thân đã chứng ngộ truyền trao cho chúng sanh, khai thị Phật tánh, thể nhập tri kiến Phật. Chính vì thế, sau mỗi lần thuyết giảng, thính chúng đều chứng đắc quả vị, tối thiểu là pháp nhãn tịnh, tương đương kiến đạo vị. Nói như thế, không phải đòi hỏi bất cứ vị giảng sư (hoằng pháp viên) nào trước khi đi truyền trao chánh pháp cũng phải chứng đắc đạo quả như các vị Thánh tăng, mà ở đây điều muốn nhấn mạnh là để nhắc nhở chúng ta nhìn lại quá trình tu học của chính mình, sau đó quyết tâm phấn đấu mong có một đức tính ưu việt, từ lý thuyết đến thực hành, từ lời nói đến việc làm phải đi đôi với nhau, ngôn hành hợp nhất hay hành giải tương ưng. Trên tinh thần đó, người hoằng pháp viên hãy nói những gì người ta cần, không phải trình bày những gì mình hiểu biết, bởi Phật giáo chủ trương thực tiễn tu tập, nhờ đó mới đưa đến sự giác ngộ và giải thoát. Đó cũng chính là bản hoài và gia vụ của những người được mệnh danh là “người Phật tử.”
Truyền thống Phật giáo cho chúng ta thấy những người tu sĩ, trước nhất và trên hết là phải am tường một cách triệt để về giáo nghĩa Tam Vô Lậu Học, mà đứng đầu là giới học (sīla). Trong tất cả học giới thì phạm hạnh là trên hết. Nếu tam học không trang nghiêm và phạm hạnh không thanh tịnh thì hãy khoan nói đến vấn đề hoằng pháp. Bởi vì, tham ái là vô minh trụ địa, một trong ngũ trụ địa, thường gọi là căn bản vô minh (mūla-avidyā) của tất cả mọi vấn đề, chính nó là nguồn gốc của sanh tử luân hồi trong tam giới “tam giới sanh tử, dục vi đệ nhất”. Một khi những vấn đề trên được khắc phục một cách tương đối thì sự hiện diện của vị giảng sư ở bất cứ nơi nào dù chưa thuyết giảng giáo pháp cũng có thể đem lại lợi ích tâm linh cho thính chúng và mọi người. Bởi vì, thuyết pháp được thực hiện qua hai hình thức thân giáo và khẩu giáo, trong đó thân giáo thường đưa đến những kết quả bất ngờ được gọi là “hoát nhiên đại ngộ”. Cho nên, thân giáo được xem là một biểu tượng mẫu mực gây ấn tượng sâu đậm để cảm hóa tha nhân, là bài pháp vô ngôn nhằm chuyển hóa con người quay về bến giác. Như vậy, tự thân của người mang sứ mệnh hoằng pháp phải luôn tu dưỡng bản thân, hoàn chỉnh nhân cách của mình để làm thước đo mô phạm cho mọi người xung quanh. Nếu như không có một đời sống mẫu mực thì không thể tạo cho thính chúng niềm tin tưởng và khiến họ thực hành theo những gì mình hướng dẫn, lúc ấy con đường giáo hóa sẽ khó mang lại kết quả như ý. Đức Phật thường nhắc nhở rằng, một vị giảng sư cần phải giữ đúng năm điều đạo đức về việc thuyết pháp của mình: 1. Thuyết pháp theo thứ lớp, từ thấp đến cao; 2. Thuyết y theo các pháp môn của kinh điển; 3. Thuyết vì lòng từ bi, muốn lợi ích cho mọi người; 4. Thuyết không vì lợi ích của mình, không mong được đền đáp; 5. Không chê người, khen mình.
Kinh Ưu-bà-tắc Giới còn triển khai việc thuyết pháp gồm 16 điều cần nhớ: 1. Thuyết giảng tùy thời; 2. Thuyết giảng hết lòng; 3.Thuyết giảng theo thứ tự từ dễ đến khó, từ thấp đến cao; 4. Thuyết giảng một cách hòa hợp; 5. Thuyết giảng đúng theo nghĩa lý; 6. Hoan hỷ thuyết giảng; 7. Tùy ý thuyết giảng; 8. Không khinh thường thính chúng; 9. Không la mắng thính chúng; 10. Nói đúng như pháp; 11. Nói pháp lợi mình và lợi người; 12. Nói pháp không tán loạn; 13. Nói hợp nghĩa; 14. Nói chân chính; 15. Nói xong thời không kiêu mạn; 16. Nói xong không cần quả báo về sau.
Kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni thì dạy rằng, vị giảng sư nói pháp phải có tâm nhẫn nhục thương xót, ái ngữ và khiêm hạ; nếu ôm lòng giận ghét hoặc hơn thua thì sẽ mắc đại trọng tội; nếu thuyết với tâm từ bi thì sẽ thành tựu công đức to lớn, khiến Phật pháp trụ thế lâu dài. Hay nói theo tinh thần kinh Pháp Hoa, một vị giảng sư khi đi truyền trao chánh pháp thì phải “vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và ngồi toà Như Lai”. Có trang bị được như vậy, thì công cuộc hoằng pháp lợi sanh mới mong có kết quả và thành tựu cao được. Ngày nay, Giáo hội đang phải đối diện với nhiều lãnh vực mang tính nhạy cảm trong xã hội, vì vậy hơn bao giờ hết đòi hỏi người tu sĩ nhất là giảng sư phải hội đủ cả kiến thức cột sống (kiến thức nền, kiến thức Phật học) và kiến thức mềm, tức là những kiến thức thời đại, tiếp cận những phát minh khoa học truyền thông, kỹ thuật số... Chính vì sớm nhận ra điều này, nên chư Tôn Đức trong ngành Hoằng pháp thường ưu tư và nóng lòng yêu cầu một vị giảng sư cần phải hội đủ các điều kiện từ ngoại hình, âm thanh, sắc tướng, bằng cấp, tác phong đĩnh đạt uy nghi v.v… một khi các yếu tố này được trang bị hoàn thiện, rồi dấn thân thực hành sứ mạng hoằng pháp lợi sanh. Từ nhận định trên, chúng ta có thể khẳng định: Điều thứ nhất, trước khi trở thành một giảng sư chuyên nghiệp, phải tôi luyện ý chí chịu đựng vô vàn thử thách, rèn luyện đức tính kiên nhẫn. Chúng ta hãy nhìn lại tấm gương thuyết pháp của ngài Phú-lâu-na (punna), một trong mười đại đệ tử của đức Phật, được tôn xưng là thuyết pháp đệ nhất. Khi được cử đi giáo hóa phương xa, nơi hiểm trở và con người độc ác. Ngài đã trả lời đức Phật rằng: “...Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunapa ranta sẽ lấy dao sắc bén đoạt hại mạng con,... có những đệ tử của Thế Tôn, ưu phiền và nhàm chán thân thể và sinh mạng đi tìm con dao (để tự sát). Nay ta khỏi cần đi tìm đã được con dao ấy”. Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy...” Với ý chí kiên định và sự nhẫn nại như thế, chắc chắn không Phật sự nào mà không thành tựu.
Điều thứ hai, một giảng sư chuyên nghiệp phải thông thạo nội điển cũng như ngoại điển, hay nói cách khác là phải thông đạt “Ngũ minh”. Trong đó, phải nghiền ngẫm suy tư và hành trì những giáo lý căn bản nhất như là Tứ nhiếp pháp, Bát chánh đạo; kế đến, phải biết đẩy mạnh ứng dụng công nghệ truyền thông kỹ thuật số, để truyền tải đến cộng đồng nhiều bài pháp hay, có ý nghĩa trong cuộc sống, đem đến ích đạo lợi đời; một điều quan trọng nữa đó là phải thông thạo các môn tâm lý giáo dục, ngoại ngữ - Anh ngữ, Hoa ngữ, Cổ ngữ (nếu khả năng biết ngoại ngữ càng nhiều thì càng tốt) v.v… vừa để nghiên cứu các tác phẩm có liên quan đến Phật giáo nước ngoài, vừa nâng cao kiến thức chuyên môn cho một vị giảng sư, đặc biệt là giới thiệu văn học và tư tưởng Phật giáo cũng như văn hóa của Quốc gia để thế giới có một cái nhìn chính xác về Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và con người Việt Nam. Không những thế, vị giảng sư cũng cần phải am hiểu tường tận về ý nghĩa “ứng phó đạo tràng”, có thể thực hiện nghi lễ tán tụng và sắp đặt các lễ tiết một cách chuẩn mực theo đúng khoa nghi của Phật giáo.
III. Thay lời kết Nhìn về tương lai, để phát triển và xiển dương giáo pháp trong thời hiện đại, vị giảng sư phải hội đủ hai đức tính như đã trình bày trên. Đồng thời vị giảng sư cũng phải biết rèn luyện, nâng cao tính chuyên môn hoá trong hoằng pháp, và đạo tạo những nhân tố mang tính kế thừa để dấn thân phục vụ, ra sức gánh vác trách nhiệm góp phần xây dựng Giáo hội, phát huy mạnh mẽ phương châm: “Trưởng dưỡng đạo tâm, trang nghiêm Giáo hội” để hoằng dương Chánh pháp, lợi lạc quần sinh. Có như thế công việc hoằng pháp của chúng ta mới được thành tựu mỹ mãn.
Tài liệu tham khảo
1.Thích Minh Châu (dịch) (1993), Tương Ưng Bộ (tập I), VNCPHVN ấn
hành.
2.Thích Minh Châu (dịch) (2002), Trung Bộ Kinh (tập III), Nxb Tôn
Giáo.
3.Linh Sơn Pháp Bảo (dịch) (2019), Kinh Ưu-bà-tắc Giới, Nxb Hồng
Đức.
4.Thích Trí Tịnh (dịch) (2007), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Nxb Tôn giáo.
5.Thích Nhật Từ (chủ biên) (2021), Phật Giáo Vùng Nam Bộ Trong Thế
Kỷ XX, Nxb Hồng Đức.
6.《大法炬陀羅尼經》CBETA 電子版 : 大正新脩大正藏經 Vol. 21,
No. 1340.
Tin: Ban Hoằng Pháp BTS GHPGVN tỉnh Đồng Nai
Đăng Bài: Ban TTTT PG Đồng Nai