Cập nhật lúc 01:53:47 25-03-2020 (GMT+7)

Phong trào Phật giáo Theravāda ở Nepal

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sinh ở Lumbini (Lâm-tỳ-ni), địa danh thuộc lãnh thổ Nepal ngày nay.


lumbini.jpg
Lumbini, Nepal

Bối cảnh

Lumbini tọa lạc về phía Tây nam Nepal, gần biên giới Ấn Độ. Vào thế kỷ VI tr.TL, khi Đức Phật đản sinh, Lumbini tọa lạc ở biên giới giữa hai nước Cộng hòa Shakya và Koliya. Những di tích khảo cổ ở Kapilavastu và Devadaha, kinh thành của hai nước Cộng hòa này, vẫn còn rõ nét. Tháp Ramagama ở Nepal là ngôi tháp duy nhất trong số tám ngôi tháp mà xá-lợi Phật được an trí trong đó vẫn còn nguyên, trong khi hoàng đế Asoka (272-232 tr.TL) đã cho mở tất cả bảy ngôi tháp kia để phân bổ xá-lợi đến hàng ngàn ngôi tháp xây khắp Ấn Độ.

Vào thời Đức Phật Thích Ca, vua Vidudabha của vương triều Kosala ở phía Nam nước Cộng hòa Sakya đã xâm chiếm Kapilavastu và sát hại những người Shakya (Theo Huyền Trang, con số là 10.000 người). Nhiều người Shakya đã trốn thoát đến thung lũng Kathmandu. Vào thời đó, người dân bản địa của thung lũng Kathmandu là những người chăn cừu. Những người Shakya đã du nhập vào việc trồng lúa và văn hóa thành thị theo truyền thống Shakya. Khu định cư đầu tiên được đặt tên là Koliyagrama mà nó có nghĩa rằng dân số Koliya có thể chiếm lĩnh cộng đồng định cư. Mulasarvastivada (Căn bản thuyết Nhất thiết hữu bộ) miêu tả về tình trạng sinh sống của những người Shakya ở thung lũng Kathmandu khi Tôn giả Ananda viếng thăm nơi này trở về. Điều này cho thấy rằng Phật giáo đã có mặt ở Kathmandu vào thời Đức Phật. Sự hiện diện của Phật giáo Theravāda ở đây được chứng minh qua các tài liệu là mãi cho đến thế kỷ VIII TL. Bản viết tay cổ nhất được tìm thấy ở Nepal là về một số giới luật bằng tiếng Pāli. Phật giáo Đại thừa mà nó có mặt từ thế kỷ I TL đã tiếp tục với những biến thể và phát triển thành Kim cương thừa của truyền thống Newar.

Những đồng bằng phía Nam của Nepal ngày nay là lãnh thổ của người Shakya, Koliya và Videha (một trong những nước Cộng hòa của người Vajji/Bạt-kỳ), ở đó Phật giáo đã được truyền bá một cách tự nhiên vào thời Đức Phật. Rất khó ước đoán Phật giáo Theravāda đã biến mất khỏi những vùng đất này vào thế kỷ nào. Khi Huyền Trang viếng Lumbini vào thế kỷ VII, ông nhìn thấy cả Tăng sĩ Theravāda và Đại thừa ở trong và quanh vùng Kapilavastu, Lumbini và Ramagana.

Chỉ vào thập niên 1920, chúng ta mới thấy xuất hiện trở lại những hoạt động của Phật giáo Theravāda ở thung lũng Kathmandu. Kể từ đó cho đến nay, những người theo Phật giáo Theravāda đã hoạt động theo cách thức của một phong trào hồi sinh, duy trì và phát triển Phật giáo ở Nepal. Bài viết này sẽ miêu tả những sự kiện quan trọng của phong trào này và trình bày tình trạng hiện tại và những triển vọng tương lai. Bài viết cũng đưa ra sự phân tích về việc tại sao người Nepal nhiệt tâm với truyền thống Theravāda trong tám thập kỷ qua.

Phật giáo Newar

Trước khi Phật giáo Theravāda hiện tại du nhập vào Nepal (xa xưa, thung lũng Kathmandu được gọi là Nepal), những người Newar ở thung lũng này thực hành theo Phật giáo Newar. Phật giáo Newar là một biến thể của Theravāda, Đại thừa và Kim cương thừa. Hình thức Phật giáo này cũng chứa đựng những yếu tố của Mật giáo Hindu. Phật giáo Newar đã duy trì việc thực hành trong số những cộng đồng người Newar ở thung lũng Kathmandu trong nhiều thế kỷ và phát triển thành tông phái của riêng mình mà nó truyền kiến thức và sự thực hành qua các thế hệ. Các tu sĩ được gọi là Vajracharya, và những người quản lý tu viện thì hầu như là người Shakya, còn những cộng đồng khác (nông dân, thợ thủ công, thương nhân…) là những người tại gia. Hầu hết các tu viện là đất do hoàng gia và thương nhân hiến cúng. Những người Newar thịnh vượng nhờ vào việc buôn bán với Tây Tạng, đất đai thung lũng màu mỡ và các ngành thủ công nghiệp có tay nghề cao. Hầu hết mọi sự kiện văn hóa ở thung lũng đều gắn liền với những nghi lễ Phật giáo Newar. Cộng đồng Newar là xã hội tự trị và tự quản.

Những vị vua từ thế kỷ XIV trở về sau là những người Hindu. Jayasthiti Malla (1382) đã sáp nhập hệ thống đẳng cấp vào những người Newar. Những tu sĩ độc thân bị bắt hoàn tục, buộc kết hôn và theo một hệ thống đẳng cấp. Những người Newar đã đổi mới Phật giáo Newar bằng việc pha trộn Phật giáo Theravāda, Đại thừa và Kim cang thừa lại với nhau và khéo léo xen nhiều vị thần Hindu vào hệ thống các thần và nữ thần của tín ngưỡng Đại thừa và Kim cương thừa. Những người truyền bá Phật giáo Newar chính yếu là những người Vajracharya và Shakya. Những đặc điểm chung của Phật giáo Newar là như sau:

1- Những chàng trai của đẳng cấp Vajracharya và Shakya thọ giới làm Sa-di (Samanera) ở trong những tu viện tư gia và ở đó bốn ngày, giữ một vài giới đơn giản như ăn chay và tránh tiếp xúc nữ nhân. Họ đến những người thân để khất thực (pindapata) vào thời điểm thích hợp. Việc xuất gia này thiên về nghi thức hơn là một sự hiểu nghiêm túc về ý nghĩa của việc xuất gia thực thụ. Nó trở thành một nghi lễ của một đẳng cấp hơn là một việc theo đuổi đời sống tâm linh thực sự.

2- Các cô gái trải qua lễ kết hôn giả khi còn nhỏ, và có 12 ngày tránh xa nam giới khi đến tuổi dậy thì. Cả hai nghi lễ này dành chung cho cả cộng đồng Phật giáo và Hindu.

3- Khi những chàng trai cũng như các cô gái khôn lớn và đến tuổi kết hôn, họ bắt đầu một nghi lễ thiền định buổi sáng mỗi ngày. Một mantra sẽ được một vị tu sĩ đọc thầm bên tai 108 lần ở trong một căn phòng thờ thần linh thiêng.

4- Sau khi kết hôn, cặp đôi trải qua quá trình huấn luyện sâu hơn về thiền và việc tuân giữ các luật lệ. Những bức tranh Tantrik Phật giáo, mà nó hiện là những món quà lưu niệm thường được những khách du lịch phương Tây mua, là những tài liệu huấn luyện.

5- Những người đàn ông Vajracharya trải qua việc huấn luyện bổ sung về trách nhiệm tu sĩ (Acha luyagu).

Những người Vajracharya và Shakya có vị trí tốt trong xã hội đẳng cấp bởi nhờ việc được thụ phong. Shakya là những người quản lý tu viện giàu có. David Gellner gọi những người Vajarachrya và Shakya là những tu sĩ tại gia Tantrik. Họ sống trong các khu tu viện với đủ các vấn đề của đời sống gia đình. Tu viện không có những tu sĩ độc thân. Ước tính rằng ba phần trăm dân số Nepal thực hành theo Phật giáo Newar.

Phật giáo Lạt-ma (Lama)

Dân chúng ở những ngọn núi cao thuộc Himalaya theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Mỗi ngôi làng có một tu viện (gumba), và đó là một trung tâm tôn giáo-văn hóa của cộng đồng. Hầu hết các Lạt-ma sống trong tu viện đều lập gia đình. Một số tu viện có Lạt-ma độc thân. Họ thực hành Đại thừa và Kim cương thừa. Những người Tamang và Gurung ở những ngôi làng giữa núi cũng thực hành Phật giáo Lạt-ma với một vài pha trộn Sa-man giáo bản địa. 

Hiện nay, với sự phát triển những tu viện Tây Tạng ở thung lũng Kathmandu và sự có mặt của Lạt-ma Tây Tạng ở Nepal, Phật giáo Lạt-ma thuộc tất cả các giáo phái đang phát triển mạnh mẽ với việc đào tạo các tu sĩ Lạt-ma trẻ. Tác giả bài viết này không nghiên cứu nhiều về Phật giáo Lạt-ma để thảo luận chi tiết hơn trong bài viết này. Ước tính có 10% dân số Nepal theo Phật giáo Lạt-ma.

Phật giáo Lạt-ma không bị sức ép chính trị như Phật giáo ở thung lũng Kathmandu. Họ sống biệt lập và không bị quấy nhiễu bởi vì họ ở bên ngoài sự cai trị của những vị vua Newar. Họ có mặt hầu hết ở những ngọn núi phía Bắc và có những giao thoa văn hóa với Tây Tạng. Khu vực phía Tây của Nepal là vương quốc của những người Khash tách biệt. Những người này cũng theo Phật giáo cho đến thế kỷ XV. Phật giáo Lạt-ma và Phật giáo Newar có sự ảnh hưởng mạnh mẽ vào truyền thống của họ. Một số tàn tích khảo cổ còn lại cung cấp chứng cứ về sự có mặt của Phật giáo ở vùng đất này.

Đấu tranh cho việc du nhập Phật giáo Theravāda 

Lịch sử du nhập Phật giáo Theravāda đầy những cam go. Vào năm 1769, những vị vua Newar bị đánh đuổi bởi một vị cai trị mới của vương triều Shah, mà dòng dõi của ông này đã tạo nên lãnh thổ Nepal ngày nay bằng việc chinh phục những người cai trị của nhiều lãnh địa nhỏ. Vương triều này tuyên bố Nepal là một nhà nước Hindu và dần dần đàn áp các Phật tử và tu viện của họ. Sau đó đế chế Rama nắm quyền cai trị vào thời kỳ 1846-1950 và đàn áp các Phật tử khốc liệt hơn. Họ cô lập người Nepal với các liên hệ bên ngoài. Dân chúng phải xin giấy phép thông hành để ra vào thung lũng Kathmandu. Những vùng đất thuộc về các tu viện Newar bị những gia đình cai trị cướp lấy để làm cung điện theo phong cách phương Tây. Có hơn 20 cung điện như vậy vẫn còn hiện diện nơi những trụ sở nhà nước hay nơi cư trú tư nhân của con cháu họ.

Những cộng đồng Phật tử ở thung lũng Kathmandu là những thương nhân đáng tin cậy ở Tây Tạng. Họ cảm kích sự nhiệt huyết và sự cống hiến của những Lạt-ma Tây Tạng trong việc giữ gìn và thực hành Phật giáo. Những thương nhân này có những cơ sở (trung tâm hỗ trợ) ở Calcutta để mua hàng hóa Ấn Độ xuất sang Tây Tạng. Là những Phật tử, họ tiếp xúc với Hội Mahabodhi, một hội truyền giáo do Anagarika Dhammapala lãnh đạo. 

Vào năm 1921, một thanh niên Shakya có tên là Jagat Man Vaidya đến Calcutta để nghiên cứu về thương mại theo một chương trình học bổng của Chính phủ Nepal. Ở đó anh gặp ngài Anagarika Dhammapala và cảm thấy buộc phải kết nối với Dhammapala để truyền bá Phật giáo Theravāda ở Nepal. Anh đã đổi tên thành Dharmaditya Dharmacharya, khoác một loại áo vàng, dốc sức học tiếng Pāli và làm việc cùng với những Phật tử Newar. Năm 1923, anh đến Kathmandu và thành lập Hội Nepal Buddhopasak Sangh (Hội Phật tử cư sĩ Nepal). Anh xuất bản Bauddha Dharma, tạp chí đầu tiên bằng tiếng Nepal Bhasha (thổ ngữ của những người Newar bản địa) vào năm 1925 để đánh dấu dịp lễ Vaishakh Purnima (lễ Vesak). Tạp chí này về sau được xuất bản với tên gọi là Buddha Dharma wa Nepal Bhasha. Vào năm 1926, anh tổ chức lễ kỷ niệm ngày đản sinh, giác ngộ, và nhập diệt của Đức Phật - lễ Vaishakh Purnima đầu tiên ở Nepal.

Vào năm 1928, anh tổ chức một hội nghị Phật giáo toàn Ấn Độ ở Calcutta, mà nó tập trung vào tình trạng của các Phật tử ở Nepal. Do vì những hoạt động trong việc hồi sinh Phật giáo ở Nepal, anh không thể dành thời gian cho chương trình đại học của mình và đã trượt kỳ thi. Học bổng của anh bị chính phủ chấm dứt. Anh trở lại Nepal và kết hôn, sống đời sống của một cư sĩ. Môi trường thù địch ở Nepal đã làm tiêu tan việc học hành của anh.

Vào năm 1925, tương tự với những sáng kiến của Dharmaditya Dharmacharya, một vị thầy Tây Tạng có uy tín tên là Kyangtse Lama đã đến thung lũng Kathmandu trong một cuộc hành hương khó nhọc bằng việc lễ lạy dọc theo con đường từ Tây Tạng đến Swayambhu mà nó mất bốn năm rưỡi để đến Kathmandu. Ông bắt đầu giảng dạy Phật giáo bằng tiếng Tây Tạng và một người Newar địa phương đã dịch sang tiếng Nepal Bhasha. Việc giảng dạy của ông đã thu hút đông đảo Phật tử Newar. Những người Vajracharya cảm thấy không vui với điều đang xảy ra này khi những tín đồ truyền thống của họ bị cuốn vào trong những đám đông được quy tụ bởi một tu sĩ đến từ nước ngoài. 

Họ đã đệ đơn lên văn phòng của Thủ tưởng Rana cáo buộc rằng những người Udaya (đẳng cấp thương nhân Phật giáo) ăn thức ăn dâng cúng từ một Bhote (từ ngữ mang ý ám chỉ những người Tây Tạng), và như vậy hủy hoại quy định đẳng cấp về việc cấm ăn thức ăn từ những đẳng cấp khác. Sau đó, những tu sĩ Vajracharya quyết định không nhận cơm của những người Udaya. Điều này gây nên một sự xung đột lớn giữa những người Vajracharya và Udaya. Một số Udaya mà họ cầu khẩn sự tha thứ cho sai lầm của họ đã được chấp nhận trở lại. Có một số người tham gia sự kiện này vì nó mang lại sự thay đổi trong xã hội. Để giải thoát khỏi sự chuyên chế của những người Vajracharya, những người Udaya này phải tìm kiếm con đường thay thế để giữ vững niềm tin của họ vào Phật giáo. Về sau, Phật giáo Theravāda trở thành lối thoát phù hợp cho những người theo chủ nghĩa cách tân.

Tiếp bước những hoạt động phôi thai này, có năm thanh niên Newar với nhiệt tâm cao đã cống hiến cuộc đời để bắt đầu một phong trào phục hưng Phật giáo. Tên của năm người là Nani Kaji Shrestha, Kanchha Shakya, Dalchini Manadhar, Bekha Raj Shakya và Gyan Shakya. Trong đó Nani Kaji Shrestha là người lãnh đạo, còn Gyan Shakya đã thọ giới với một vị Lạt-ma Tây Tạng tên là Tsering Norbu. Nanai Kaji Shrestha trước đó đã thụ phong như một tu sĩ Mahapragya thuộc về một gia đình Hindu và luật của quốc gia không cho phép cải đạo hoặc bỏ đạo. Vào năm 1926, những người Vajracharya ở Kathmandu mà họ đang nỗ lực khẳng định hệ thống phân chia đẳng cấp của họ đối với những người Udaya đã than phiền với chính phủ về sự việc rằng tu sĩ Mahapragya, một vị Hindu từ gia đình Shrestha đã cải đạo sang Phật giáo. Do đó tu sĩ Mahapragya và bốn tu sĩ khác đi cùng với Tsering Norbu bị trục xuất ra khỏi Nepal. Tu sĩ Mahapragya đi đến Tây Tạng và dạy Phật pháp ở đó, nơi ông gặp Kul Man Singh Tuladhar, người truyền giới cho ông với tên gọi Karmashila.

Về sau, Mahapragya và Karmashila rời Tây Tạng và đến Ấn Độ, ở đó họ thọ giới lại theo Phật giáo Theravāda và là những Tăng sĩ Theravāda đầu tiên ở Kushinagara dưới sự giảng dạy của Hòa thượng U Chandramani, một Tăng sĩ Miến Điện đang sống ở Kushinaga vào năm 1928.

Thầy Pragyananda đi khất thực trên những đường phố Kathamandu lần đầu tiên vào năm 1930. Ông ở tại tịnh xá Kindol theo lời mời của Das Ratna Shahu (về sau là Thượng tọa Dharmaloka) và thuyết giảng ở đó. Thính chúng tham dự những buổi giảng của ông ngày một tăng và điều này khiến chính quyền Rana lo ngại, và vì vậy cho bắt giữ tất cả những thành viên của tịnh xá. Họ bị cầm tù, bị phạt và sau đó được thả. May mắn, thầy Pragnananda (hay Karmashila) ở nơi khác và không bị bắt. Ông tiếp tục hành hương đến Ấn Độ với một số tín đồ. Bốn đệ tử của ông đã thọ giới dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng U Chandramani tại Kushinagara. Họ là Samanera Shasana Jyoti, Anagarika Ratna Pali, Anagarika Dhamma Pali và Anagarika Sangha Pali. Đây là lễ thọ giới cho Ni đầu tiên trong Phật giáo Theravāda ở Nepal hiện đại. Điều này làm tăng thêm sự nhiệt huyết cho việc hồi sinh Phật giáo Theravāda. Nhiều thanh niên Nepal đã xuất gia thọ giới ở Kushinagara. Những Tăng sĩ Theravāda danh tiếng khác là Shakyananda, Dhammaloka, Amritananda, Anurudra, Subodhananda, và Buddhaghosha.

Vào năm 1925, Das Ratna Shahu, một thương nhân, cùng với con trai của mình trở về từ Tây Tạng sau khi vợ ông qua đời. Ông ở tại tịnh xá Kindol và dành thời gian cho việc giảng dạy Phật giáo Tây Tạng. Sau đó con trai ông đến Sri Lanka và xuất gia thọ giới theo Phật giáo Theravāda. Das Ratna đã đến Sri Lanka để thăm con trai mình. Ông cũng xuất gia thọ giới Sa-di ở Sri Lanka và có tên là Dhammaloka; và sau khi quay trở về Kathmandu, ông bắt đầu giảng dạy Phật giáo Theravāda ở tịnh xá Kindol. Vào năm 1931, một trong những người theo ông, một người Taladhar cùng đẳng cấp với ông, đã trình báo với chính quyền Rana rằng Das Ratna đang truyền bá tôn giáo chống thần linh trong những người Taladhar. 17 người Tuladhar cùng với Dhammaloka bị phạt và bỏ tù.

Trong số họ, có những người đáng chú ý là Dhamma Sahu, Yogbir Singh Kansakar và Chittadhar Hridaya. Ngay sau khi ra tù, Das Ratna Shahu thọ Cụ túc giới theo truyền thống Theravāda tại Kushinagara với Hòa thượng U Chandramani vào năm 1935. Sau đó ông trở về thăm Nepal trong tư cách một tu sĩ nhưng bị bắt ngay lập tức trên đường đến Kathmandu và bị giam sáu ngày, sau đó được phóng thích mà không bị kết bất kỳ tội danh gì. Khi được thả, ông đến cư trú tại tịnh xá Kindol và tiếp tục những hoạt động tôn giáo của mình. Cuối cùng, ông có thể thực hiện những hoạt động tôn giáo một cách tự do ở Nepal. Ông đã thành công trong việc truyền bá Phật giáo Theravāda ở thung lũng Kathmandu. Về sau, ông thành lập chùa Anandakuti, ngôi chùa Theravāda đầu tiên ở Nepal, tại chân ngọn đồi Swayambhu và nó trở thành trung tâm của Tăng-già Theravāda ở Nepal hiện đại.

Hòa thượng Amritananda là một học giả Phật giáo nổi tiếng khác và là người tiên phong trong việc phục hưng Phật giáo Theravāda ở Nepal hiện đại. Ông thọ giới với Hòa thượng Chandramani tại Kushinagara vào năm 1936 nhưng bị bắt giam cùng với Hòa thượng Mahapragya tại Bhojpur vào năm 1937. Vào năm 1942, ông từ nước ngoài trở về Nepal sau khi hoàn thành việc học và thuyết giảng theo thỉnh cầu của Hòa thượng Dhammaloka ở Swayambhu vào những tháng an cư mùa mưa. Những bài thuyết giảng của ông tác động mạnh mẽ vào người tại gia và có nhiều người đến nghe ông. Những Tăng Ni khác của Nepal đang học ở nước ngoài cũng đã trở về cùng với ông thuyết giảng ở những nơi khác nhau ở thung lũng Kathmandu. Đây là một bước đột phá lớn trong chính phủ cô lập Rana. Chính phủ Rana vào thời bấy giờ cấm bất kỳ sự tụ tập công cộng nào bởi vì sợ bất ổn chính trị và đòi hỏi cải cách chính trị ở Nepal.

Bởi vì những hoạt động tôn giáo này, họ bị bắt giam vào ngày 30 tháng 7 năm 1944 và được đưa đến trước Thủ tướng Juddha Shamsher Jung Bahadur Rana để nghe phán quyết về tội truyền bá Phật pháp. Vị thủ tướng đưa ra những luật lệ nhằm tước đi những hoạt động của giới Phật giáo. Những người không theo những luật lệ này thì được yêu cầu hoặc rời khỏi đất nước, hoặc phải hoàn tục. Tất cả những vị Tăng đáng kính, mà họ tích cực trong việc làm hồi sinh Phật giáo Theravāda ở Nepal, đều từ chối tuân theo mệnh lệnh và một lần nữa bị trục xuất khỏi Nepal. Những Tăng sĩ bị trục xuất vào thời điểm này bao gồm Pragnananda, Dhammaloka, Subhodhananda, Pragnarashmi, Samanera Pragnarasa, Samanera Ratnajyoti, Samanera Agga Dhamma và Samanera Kumara. Những vị Ni thì được phép ở lại trong tịnh xá cho đến hết kỳ an cư.

Tiến sĩ Keshab Man Shakya
- Vô Ưu (Giác Ngộ) 
dịch

Ý kiến phản hồi

Xin vui lòng gõ Tiếng Việt có dấu