Tại chánh điện tổ đình Vĩnh Nghiêm, chư tôn đức bổn tự đã thành tâm phúng tụng kinh A Di Đà và nghi thức cung tiến giác linh theo nghi lễ thiền môn Bắc bộ diễn ra đồng thời tại Tổ đường.
Để tri ân những đóng góp của cố Hoà thượng Thích Tâm Giác cho Phật giáo và dân tộc, chư Tôn giáo phẩm Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sư GHPGVN đã quang lâm về Tổ đình Vĩnh Nghiêm để thành kính dâng hương tưởng niệm cố Hoà thượng.
Dịp này, Thượng toạ Thích Giác Dũng cũng thay mặt môn đồ tứ chúng, ôn lại cuộc đời và đạo nghiệp của Hoà thượng Tổ sư đã dành cho Phật pháp nói chung, và việc phát triển môn phái Tổ đình Vĩnh Nghiêm nói riêng. Tiếp đó, môn đồ tứ chúng cũng thành tâm thiết lễ trai Tăng cúng dường chư Tôn đức hiện tiền chứng minh, nhằm hồi hướng công đức thù thắng này lên Giác linh Tổ sư.
Thượng toạ Thích Giác Dũng cùng môn đồ đệ tử Tổ đình Vĩnh Nghiêm tác bạch cúng dường trai tăng đến chư tôn đứcĐược biết, Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong, rất thâm tín Phật pháp.
Khi lên 7 tuổi, ngài xin song thân cho xuất gia đầu Phật. Được sự chấp thuận của hai cụ, bước đầu ngài thụ nghiệp với Hòa thượng Thích Trí Hải tại chùa Mai Xá thuộc Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Vào đầu năm 1930, phong trào chấn hưng Phật giáo nổi lên khắp nước. Năm 1934, Hòa thượng Trí Hải (chùa Mai Xá) bèn từ giã chùa lên thủ đô Hà Nội, cùng với chư tôn đức và các cư sĩ thuần thành đầy tâm huyết như các ông Nguyễn Năng Quốc, Trần Văn Đại, Bùi Thiện Căn, Bùi Thiện Cơ vận động tổ chức Hội Bắc kỳ Phật giáo. Hội đã cung thỉnh Hòa thượng Thích Thanh Hanh là Tổ Vĩnh Nghiêm lên ngôi Thiền gia Pháp chủ, mở đầu kỷ nguyên chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc.
Bấy giờ ngài 17 tuổi, được Bổn sư cho theo lên Hà Nội hầu hạ và đóng góp sức mình vào công việc hoằng dương đạo pháp. Thuở ấy ngài chỉ mới thọ giới Sa-di, nhưng được các Tổ Tế Xuyên, Tế Cát, Trung Hậu, Hương Tích và Tuệ Tạng rất thương yêu.
Năm 1937, sau khi tốt nghiệp lớp Trung đẳng Phật học tại trường Bồ Đề thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, ngài được các Tổ cho đăng đàn thọ Tỳ-kheo giới, lúc đó ngài tròn 20 tuổi. Đại giới đàn này do các vị tôn túc thủ tọa chứng minh như Tổ Tế, Tổ Trung, Tổ Hương, Tổ Cồn, Tổ Quảng, Tổ Ngũ và các Hòa thượng Trí Hải, Thái Hòa, Tố Liên tác chứng.
Từ đó ngài được vào hàng sứ giả của Như Lai, được cử giữ những chức vụ trọng yếu trong trụ xứ cũng như làm duy-na trong các kỳ kiết hạ an cư tại chùa Quán Sứ (số 74 đường Quán Sứ – Hà Nội).
Sau năm 1945, vừa tốt nghiệp xong lớp Đại học Phật học tổ chức tại chùa Quán Sứ, ngài cũng như các sinh viên Tăng và dân chúng phải tản cư khỏi thành phố vì thời cuộc. Năm 1949, ngài hồi cư về Hà Nội và được cử giữ chức Phó Giám đốc nhà in Đuốc Tuệ, phụ bút nguyệt san Phương Tiện, cơ quan của Hội Tăng Ni chỉnh lý Bắc Việt do Hòa thượng Tố Liên làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Trong thời gian này ngài còn tham gia các công tác từ thiện xã hội, hợp sức cùng Hội Việt Nam Phật giáo do cư sĩ Bùi Thiện Cơ làm Hội trưởng, trông nom Cô nhi viện ở trại Tế Sinh lên đến 160 em.
Vốn đã thông thạo Hán tự, biết qua Pháp văn, lại ôm ấp hoài vọng xuất dương tu học và tham khảo Phật sự các nước, nên lúc còn học tại chùa Quán Sứ, ngài đã cùng bạn đồng môn là Hòa thượng Thích Thanh Kiểm rủ nhau tranh thủ đi học thêm Anh văn và Nhật ngữ. Năm 1953, trong một cuộc họp liên hội gồm Hội Việt Nam Phật giáo và Giáo hội Tăng già Bắc Việt, hội nghị đã công cử ngài cùng Hòa thượng Thanh Kiểm sang Nhật Bản để nghiên cứu về công cuộc chấn hưng Phật giáo tại quốc gia đó.
Tại Nhật Bản, ngoài kiên tâm, chuyên tu chuyên học cả về Phật pháp và thế học. ngài thường ôm ấp chí nguyện cải tạo nếp sống cho thế hệ tương lai, cần theo chiều hướng của thời đại là có khỏe mạnh về thể xác mới mong tiến hóa về mặt tinh thần. Do đó, hằng ngày ngài đến luyện tập nhu đạo (Judo) tại Trung tâm Nhu đạo Kodokan. Sau 9 năm tu học tại Nhật, ngài đã tốt nghiệp Đại học Phật pháp tại Tokyo, lãnh cấp bằng Tiến sĩ Xã hội học, Tiến sĩ Triết học Đông Phương và Tam đẳng huyền đai tại viện Nhu đạo Kodokan.
Năm 1962, trở về nước hoằng pháp. Bước qua năm 1963, Phật giáo Việt Nam gặp pháp nạn, ngài đã cùng chư tôn đức Tăng Ni, Phật tử tham gia tích cực chống lại bạo quyền áp bức, kỳ thị tôn giáo của tổng thống Ngô Đình Diệm.
Năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập, ngài được cử giữ chức vụ Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tài chính. Trong hiến chương của Giáo hội có ghi: “Những đồng bào Phật tử Bắc Việt di cư được thành lập một miền trong Giáo hội mệnh danh miền Vĩnh Nghiêm”. Do đó, ngài được bầu làm Chánh đại diện miền Vĩnh Nghiêm.
Cuối năm 1964, thực hiện giấc mộng hằng ôm ấp từ lâu là tạo lập cho thanh niên Việt Nam có một thể lực tự vệ, thể hiện ý chí kiên cường của thế hệ trẻ có đủ ba đức bi-trí-dũng, ngài thành lập viện Nhu đạo Quang Trung, đào tạo được hàng trăm nghìn thanh niên đủ các đẳng cấp đai, mà dư âm của trường Nhu đạo này còn vang đến ngày nay.
Ở cương vị đại diện miền Vĩnh Nghiêm và để giúp cho Tăng Ni, Phật tử người Bắc đang sinh sống tại Sài Gòn lúc bấy giờ có điều kiện sinh hoạt tín ngưỡng theo truyền thống văn hóa nghi lễ đặc thù, cố Hoà thượng đã vận động tín đồ Phật tử gần xa phát tâm, cùng xây dựng chùa Vĩnh Nghiêm theo lối kiến trúc cổ kính của Bắc bộ. Từ đó, nơi đây đã trở thành trung tâm văn hoá, tâm linh và du lịch nổi tiếng tại TP.HCM.
Ngài còn dành thì giờ trước thuật các tác phẩm Phật giáo và võ đạo: Duy thức học tập I; Duy thức học tập II; Hộ thân thuật; Nage – Nokata; Nhu đạo; Biến thể Nhu đạo; Nhật ngữ tự học; Phương pháp ngồi thiền; Zen và Judo.
Thuận thế vô thường, cố Hoà thượng đã viên tịch vào ngày 20/10 Quý Sửu (15/11/1973). Nhục thân của ngài đã được nhập tháp tại nghĩa trang Vĩnh Nghiêm (Quận 12 ngày nay).
Một số hình ảnh tại buổi lễ:
Anh Quốc - Nguồn: Phật tử Việt Nam
|
|